TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 103/2022/HNGĐ-ST NGÀY 04/08/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 04 tháng 8 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 299/2022/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 5 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 213/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 13 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Bà N.T.T, sinh năm 1978; Có mặt.
Địa chỉ: ấp M, xã ĐM, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
* Bị đơn: Ông N.H.M, sinh năm 1979; Có mặt.
Địa chỉ: ấp M, xã ĐM, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện ngày 12/5/2022 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà nguyên đơn bà N.T.T trình bày như sau: Bà và ông M tự tìm hiểu và quen biết đi đến kết hôn với nhau vào năm 1996, hôn nhân lần thứ nhất, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Định Thành, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang ngày 11/8/2003. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2020 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn và ly thân từ năm 2021 tới nay. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là ông M có qua lại sống với người phụ nữ khác nên vợ chồng thường cự cãi với nhau, cuộc sống không hạnh phúc. Thời gian qua, bà đã cố gắng hàn gắn nhưng không có kết quả. Nhận thấy hiện nay tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu được ly hôn với ông M; Về con chung: vợ chồng bà có 01 con chung tên là N.M, sinh ngày 25/9/1997, hiện nay đã trưởng thành và có khả năng lao động nên không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về tài sản chung: trong quá trình chung sống vợ chồng bà có tạo lập được một số tài sản chung như sau: 01 căn nhà được xây cất trên đất của cha mẹ ruột bà cho nhưng không có giấy tờ, hiện nay bà đang quản lý, sử dụng; 01 chiếc xe honda hiệu RXX, hiện nay bà đang sử dụng. Về tài sản chung này vợ chồng bà sẽ tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về nợ chung: không có.
* Theo lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, ông N.H.M trình bày như sau: Về hôn nhân: ông thống nhất với lời trình bày của bà T về điều kiện tiến tới hôn nhân. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2020 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn và ly thân tới nay. Nguyên nhân do ông đi làm ăn xa, vợ ở nhà nghe người này người kia nói ông có qua lại với người phụ nữ khác nên vợ chồng cự cãi với nhau, sau đó, ông bỏ về nhà cha mẹ ruột ở tới nay. Thời gian qua, ông có tới lui để hàn gắn hạnh phúc nhưng không có kết quả. Nay ông vẫn còn thương vợ thương con nên không đồng ý ly hôn. Về con chung: vợ chồng ông có 01 con chung tên là N.M, sinh ngày 25/9/1997, hiện nay đã trưởng thành và có khả năng lao động nên không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về tài sản chung: trong quá trình chung sống vợ chồng ông có tạo lập được một số tài sản chung như sau: 01 căn nhà được xây cất trên đất của cha mẹ vợ cho nhưng không có giấy tờ; 01 chiếc xe honda hiệu RXX;
01 chiếc xe Dream cũ; 01 bộ vòng ximen vàng 18k. Toàn bộ số tài sản trên hiện nay bà T đang quản lý, sử dụng. Toàn bộ số tài sản trên ông đồng ý giao lại cho bà T tiếp tục quản lý, sử dụng và bà T hoàn lại cho ông số tiền 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng); Về nợ chung: không có.
* Biên bản xác M tình trạng hôn nhân tại ấp Mỹ Thành, xã Định Mỹ, huyện Thoại Sơn có nội dung như sau: Ông M và bà T hiện nay không còn sống chung, còn chuyện mâu thuẫn vợ chồng chính quyền địa phương không rõ.
* Tại phiên tòa, bà T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Ông M vẫn giữ nguyên lời trình bày là không đồng ý ly hôn, còn về tài sản chung giữa ông và bà T sẽ tự thỏa thuận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa:
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 8, Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 tuyên: Về hôn nhân: bà T được ly hôn với ông M. Về con chung: vợ chồng ông có 01 con chung tên là N.M, sinh ngày 25/9/1997, hiện nay đã trưởng thành và có khả năng lao động nên không xem xét. Tài sản chung, nợ chung: không xem xét. Bà T yêu cầu ly hôn nên phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ vào ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn và kết quả tranh luận tại phiên Tòa, Hội đồng xét xử (viết tắt HĐXX) nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: bà N.T.T khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông N.H.M có nơi cư trú tại ấp Mỹ Thành, xã Định Mỹ, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về hôn nhân: sau một thời gian tìm hiểu, bà T và ông M kết hôn vào năm 1996, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã Định Thành ngày 11/8/2003 nên được pháp luật công nhận là vợ chồng hợp pháp theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình. Nay vợ chồng bà T và ông M phát sinh mâu thuẫn, bà T xin ly hôn nên Toà án thụ lý giải quyết là phù hợp với các quy định của pháp luật.
Quá trình chung sống giữa bà T và ông M thường xảy ra mâu thuẫn, vợ chồng không tin tưởng vào tình cảm của nhau. Bà T trình bày do ông M có qua lại sống với người phụ nữ khác nên vợ chồng thường cự cãi với nhau, cuộc sống không hạnh phúc. Bà T xác định 2 vợ chồng sống ly thân từ năm 2021 tới nay. Ông M cho rằng ông đi làm ăn xa, vợ ở nhà nghe người này người kia nói ông có qua lại với người phụ nữ khác nên vợ chồng cự cãi với nhau, sau đó, ông bỏ về nhà cha mẹ ruột ở tới nay.
Thời gian qua Tòa án đã tạo điều kiện cho vợ chồng hàn gắn hạnh phúc nhưng ông bà cũng không gặp nhau để trao đổi, bàn bạc tìm ra biện pháp hàn gắn hạnh phúc vợ chồng và ông bà cũng không nhờ người thân hòa giải cho vợ chồng hàn gắn. Tại phiên tòa hôm nay, bà T vẫn kiên quyết ly hôn với ông M, còn ông M cho rằng vẫn còn thương vợ, thương con nên không đồng ý ly hôn.
Cuộc sống hôn nhân, vợ chồng là nhằm xây dựng một gia đình thật sự hạnh phúc, trở thành một tế bào của xã hội, vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc và quan tâm lẫn nhau nhưng quan hệ vợ chồng giữa bà T và ông M đã xảy ra nhiều mâu thuẫn, tình cảm vợ chồng không còn tồn tại và một bên đã không muốn sống chung lại nữa, mặc dù đã có thời gian để hai bên có cơ hội suy nghĩ, xác định lại tình cảm nhằm hàn gắn hạnh phúc nhưng vẫn không có kết quả. Tòa án đã hòa giải, tạo điều kiện thời gian cho ông bà đoàn tụ nhưng phía bà T vẫn kiên quyết xin ly hôn. Như vậy, xét thấy quan hệ vợ chồng giữa bà T và ông M đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích hôn nhân giữa hai bên không đạt được nếu duy trì cuộc hôn nhân này cũng không đem lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, căn cứ Điều 51 và khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình, cần chấp nhận yêu cầu của bà T là được ly hôn với ông M.
[2.2] Về con chung: vợ chồng ông bà có 01 con chung tên là N.M, sinh ngày 25/9/1997, hiện nay đã trưởng thành và có khả năng lao động nên HĐXX không xem xét.
[2.3] Về tài sản chung: tại phiên tòa bà T và ông M xác định về tài sản chung ông bà tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.
Về nợ chung: ông bà thống nhất trình bày không có nên HĐXX không xem xét.
[3] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thoại Sơn về giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của HĐXX nên được chấp nhận.
[4] Về án phí: Bà T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí bà T đã nộp.
Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 177, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Các Điều 8, Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014;
- Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N.T.T.
1. Về hôn nhân: Bà N.T.T được ly hôn với ông N.H.M.
Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 77 do Uỷ ban nhân dân xã Định Thành, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang cấp ngày 11/8/2003 cho bà N.T.T và ông N.H.M không còn giá trị pháp lý.
2. Về tài sản chung và nợ chung: Bà T và ông M không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét. Nếu sau này giữa bà T và ông M có phát sinh tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ được Tòa án thụ lý, giải quyết bằng vụ án khác.
3. Về án phí: Bà N.T.T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm không có giá ngạch là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009228 ngày 18 tháng 5 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
4. Quyền kháng cáo: Bà T và ông M có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu xét xử phúc thẩm./.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 103/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 103/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 04/08/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về