Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 06/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 06/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 18 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên. Tòa án nhân dân huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên, mở phiên toà công khai xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số: 155/2021/TLST - HNGĐ ngày 16 tháng 11 năm 2021 về việc "Tranh chấp về ly hôn, nuôi con". Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2022/QĐXX - HNGĐ ngày 19 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Ch, sinh năm 1986.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm BL, xã BT, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

(Có mặt tại phiên tòa) - Bị đơn: Anh Lương Văn D, sinh năm 1976.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm BL, xã BT, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên Hiện đang chấp hành biện pháp cai nghiện tại Cơ sở cai nghiện đa chức năng tỉnh Thái Nguyên.

Đa chỉ: Tổ 5, phường Thịnh Đán, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.

(Vắng mặt tại phiên tòa – có đơn đề nghị giải quyết xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Phạm Thị Ch trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Lương Văn D có đăng ký kết hôn và được cấp giấy chứng nhận ngày 06/9/2013 tại Ủy ban nhân dân xã BT, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên. Trước khi kết hôn, chị và anh D quen biết và yêu nhau một thời gian, việc kết hôn được sự đồng ý của hai gia đình và tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán địa phương.

Sau khi kết hôn chị và anh D sống tại xóm BL, xã BT, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên. Vợ chồng chung sống hòa thuận được mấy năm đầu, sau đó nảy sinh mẫu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh D nghiện ma túy chị khuyên bảo nhưng anh D không nghe, chị và mọi người trong gia đình tạo điều kiện để anh D tự cai nghiện nhiều lần nhưng anh D không bỏ được ma túy, vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi cọ, xô xát, xúc phạm lẫn nhau, nhiều lần anh D lấy tiền của chị để đi mua ma túy sử dụng. Từ cuối tháng 9/2020 thì anh D đi cai nghiện tại cơ sở cai nghiện ma túy của tỉnh Thái Nguyên. Chị và anh D không quan tâm gì đến nhau nữa, nay chị không còn yêu thương, quan tâm đến anh D nữa, kiên quyết xin được ly hôn.

Về con chung: Chị và anh D có 01 con chung là Lương Lê Tuấn Minh, sinh ngày 24/02/2014, hiện nay cháu Minh đang ở với chị. Khi ly hôn, chị đề nghị được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến khi trưởng thành, chị tự nguyện không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con chung vì anh D không có nghề nghiệp, không có tài sản gì, hiện đang cai nghiện ma túy.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị và anh D không có tài sản chung.

Do anh Lương Văn D đang cai nghiện tại Cơ sở cai nghiện đa chức năng tỉnh Thái Nguyên nên chị Ch có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải.

Đi với bị đơn - anh Lương Văn D:

Biên bản ghi lời khai ngày 07/3/2022 tại Cơ sở cai nghiện đa chức năng tỉnh Thái Nguyên, anh D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Ch có đăng ký kết hôn tại xã BT, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên theo quy định của pháp luật, trước khi kết hôn anh và chị Ch được tự do tìm hiểu, được sự đồng ý của hai gia đình và tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương. Quá trình chung sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do anh nghiện ma túy, chưa bỏ được. Nhiều lần anh lấy tiền của chị Ch, lấy tài sản của nhà đi bán lấy tiền mua ma túy sử dụng, có lần xảy ra xô xát anh đã tát chị Ch. Từ cuối tháng 9/2020 anh đi cai nghiện tại cơ sở tư vấn và điều trị ma túy của tỉnh Thái Nguyên, trước khi anh đi cai nghiện thì vợ chồng đã ly thân, nay chị Ch đề nghị ly hôn thì anh nhất trí, vì anh cũng không còn tình cảm, không yêu thương chị Ch nữa.

Về con chung: Anh và chị Ch có 01 con chung là Lương Lê Tuấn Minh, sinh ngày 24/02/2014, hiện nay cháu Minh đang ở với chị Ch. Anh đề nghị chị Ch trực tiếp nuôi dưỡng con chung do anh đang cai nghiện tại Cơ sở cai nghiện đa chức năng tỉnh Thái Nguyên, không có điều kiện chăm sóc giáo dục con chung. Đồng thời anh D có đơn đề nghị Tòa án giải quyết xét xử vắng mặt anh theo quy định của pháp luật. Do vậy, Tòa án không tiến hành hòa giải được và quyết định đưa vụ án ra xét xử công khai.

Tại phiên tòa, chị Phạm Thị Ch giữ nguyên nội dung khởi kiện.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn được thực hiện đúng quy định của pháp luật. Bị đơn đề nghị giải quyết, xét xử vắng mặt, vì vậy, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định tại Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Sau khi phân tích nội dung vụ án, đã đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị Ch, cho ly hôn giữa chị Phạm Thị Ch và anh Lương Văn D; Về con chung: Giao cháu Lương Lê Tuấn Minh, sinh ngày 24/02/2014 cho chị Phạm Thị Ch trực tiếp nuôi dưỡng, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh D, do chị Ch tự nguyện không yêu cầu.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị Phạm Thị Ch và anh Lương Văn D không có tài sản chung và nợ chung.

Về án phí: Chị Phạm Thị Ch phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Về quyền kháng cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên quyền kháng cáo đối với bản án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ ý kiến đại diện Viện kiểm sát, ý kiến của nguyên đơn. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp về Hôn nhân và gia đình. Bị đơn trong vụ án trong vụ án đăng ký hộ khẩu thường trú tại huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên, vì vậy thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên theo quy định tại các Điều 28, 35 và 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ bằng biện pháp lấy lời khai của đương sự nên việc xét xử có sự tham gia của Kiểm sát viên theo khoản 2, Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.

Quá trình giải quyết vụ án anh D đang cai nghiện ma túy tại Cơ sở cai nghiện đa chức năng tỉnh Thái Nguyên, anh D có đơn đề nghị Tòa án giải quyết, xét xử vắng mặt. Do vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn theo quy định tại Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về yêu cầu của nguyên đơn:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân:

Chị Phạm Thị Ch và anh Lương Văn D được tìm hiểu nhau và kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Do vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị Ch và anh D là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống, giữa chị Ch và anh D nảy sinh nhiều mâu thuẫn cãi vã, xô xát, có lần anh D đánh chị Ch. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do trước khi kết hôn anh D đã nghiện ma túy, nhiều lần anh D lấy tiền của chị Ch đi mua ma túy sử dụng. Cuối tháng 9 năm 2020 anh D chấp hành biện pháp cai nghiện ma túy tại Cơ sở cai nghiện đa chức năng tỉnh Thái Nguyên, nhưng do mâu thuẫn nên chị Ch và anh D đã ly thân từ trước thời điểm anh D đi cai nghiện ma túy. Nay chị Ch và anh D không còn yêu thương, quan tâm đến nhau nữa, chị Ch cương quyết xin được ly hôn, anh D nhất trí ly hôn.

Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Ch và anh D đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, chị Ch kiên quyết xin ly hôn. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu của chị Ch. Cho chị Ch được ly hôn với anh D là phù hợp và đúng quy định của pháp luật.

[2.2] Về con chung: Chị Phạm Thị Ch và anh Lương Văn D có một con chung là Lương Lê Tuấn Minh, sinh ngày 24/02/2014, chị Ch yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi con chung trưởng thành, đủ 18 tuổi, không yêu cầu anh D phải cấp dưỡng nuôi con chung. Hội đồng xét xử thấy việc giao con chung cho ai nuôi dưỡng phải đảm bảo sự phát triển ổn định của cháu. Do chị Ch có việc làm, có thu nhập, anh D đang cai nghiện ma túy tập trung tại Cơ sở cai nghiện đa chức năng tỉnh Thái Nguyên, anh D cũng đồng ý với ý kiến của chị Ch, vì anh đang cai nghiện ma túy không có điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu của chị Ch, giao cháu Lương Lê Tuấn Minh, sinh ngày 24/02/2014 cho chị Ch trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp và đúng quy định của pháp luật.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Ch tự nguyện không yêu cầu anh D phải cấp dưỡng nuôi con, xét thấy việc không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con của chị Ch là hoàn toàn tự nguyện, vì vậy cần tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh D.

[2.3] Về tài sản chung: Chị Ch và anh D không có tài sản chung, nợ chung.

[2.4] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[3] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về nội dung vụ án là có căn cứ được HĐXX chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; Các Điều 39; 147; 228;

271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị Ch.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Phạm Thị Ch và anh Lương Văn D.

2. Về con chung: Giao cháu Lương Lê Tuấn Minh, sinh ngày 24/02/2014 cho chị Phạm Thị Ch trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi con trưởng thành (đủ 18 tuổi). Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh D do chị Ch tự nguyện không yêu cầu.

Anh Lương Văn D có quyền đi lại thăm nom con chung theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung: Hi đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí và quyền kháng cáo:

Chị Phạm Thị Ch phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm sũng quỹ Nhà nước, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0004474 ngày 16 tháng 11 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt nguyên đơn. Báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

116
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 06/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:06/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Định Hóa - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;