TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DUY TIÊN – TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 16/2021/HNGĐ-ST NGÀY 13/09/2021 VỀ LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 13 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Duy Tiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 70/2021/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 8 năm 2021về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:18/2021/QĐXX-ST ngày 27tháng8 năm 2021, giữa các đương sự:
* Nguyên đơn:Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1993; nơi cư trú: Thôn T, xã T, thị xã D, tỉnh Hà Nam; Có mặt.
* Bị đơn: Anh Đào Trung D, sinh năm 1988; nơi cư trú:Thôn T, xã T, thị xã D, tỉnh Hà Nam. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bầy: chị và anh Đào Trung D đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 25/01/2016 tại UBND xã Tr, huyện D, tỉnh Hà Nam trên cơ sở tự nguyện, tự do tìm hiểu.
Sau ngày cưới vợ chồng chung sống hòa thuận được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân giữa hai vợ chồng không tìm được tiếng nói chung trong làm ăn kinh tế cũng như trong sinh hoạt hàng ngày dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng tình cảm không thể hàn gắn được, vợ chồng nhiều lần sống ly thân, lần gần nhất từ tháng 07/2021 đến nay không quan tâm gì đến nhau. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị xin ly hôn anh D.
Quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Đào Trung D trình bày: anh và chị Nguyễn Thị H đăng ký kết hôn với nhau vào ngày 25/01/2016 tại UBND xã Tr, huyện D, tỉnh Hà Nam trên cơ sở tự nguyện, tự do tìm hiểu.
Anh thừa nhận sau thời gian chung sống giữa vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không tìm được tiếng nói chung trong làm ăn kinh tế, cũng như trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày dẫn đến vợ chồng hay xảy ra cãi vã,vợ chồng ly thân nhiều lần, lần gần đây từ tháng 7/2021 đến nay không quan tâm gì đến nhau. Nay chị H xin ly hôn, anh chỉ đồng ý với điều kiện anh được nuôi hai con chung.
* Về con chung: Chị H, anh D cùng trình bày vợ chồng có hai con chung là Đào Trung Đ, sinh ngày 27/9/2016 và Đào Hoài A sinh ngày 14/11/2017. Khi ly hôn chị H xin được nuôi cả hai con chung, nếu không được thì chị xin nuôi cháu Đào Hoài A còn để anh D nuôi cháu Đào Trung Đ và không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung; chị trình bày hiện đang làm cho công ty NAXIS ở khu công nghiệp H, thu nhập bình quân mỗi tháng 6 đến 7 triệu đồng/tháng. Anh D xin nuôi cả hai con chung và yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật, anh trình bày hiện đang làm tại công ty SEABANG khu công nghiệp H thu nhập bình quân từ 7 đến 8 triệu đồng/tháng.
* Về tài sản chung, công sức, công nợ: đương sự thống nhất không đề nghị Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa: chị Nguyễn Thị H xin nuôi một con chung, chị xin tự nguyện chịu toàn bộ tiền án phí ly hôn sơ thẩm, ngoài ra chị giữ nguyên quan điểm của mình; anh Đào Trung D đồng ý ly hôn, có quan điểm để chị H nuôi dưỡng cả hai con chung và anh sẽ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H mỗi con chung 1.000.000đ/tháng. Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án là đúng và đề nghị xử công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị H và anh Đào Trung D. Về con chung: giao chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đào Hoài A; giao anh Đào Trung D trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đào Trung Đ, chị H, anh D không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung; về tài sản chung, công sức, công nợ: không đặt ra giải quyết; ghi nhận sự tự nguyện của chị H xin chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm, sau khi thảo luận và nghị án Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]Về quan hệ hôn nhân:Chị Nguyễn Thị H và anh Đào Trung D kết hôn trên cơ sở tự nguyện được Uỷ ban nhân dân xã Tr, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam đăng ký kết hôn vào ngày25/01/2016là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo hộ.
Sau thời gian chung sống giữa vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn là thực tế các bên đã thừa nhận, nguyên nhân do tính tình không hòa hợp, bất đồng về kinh tế dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã,vợ chồng ly thân nhiều lần, lần gần nhất từ tháng 07/2021 đến nay không quan tâm gì đến nhau.Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã kiên trì tổ chức hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả, chị H vẫn kiên quyết xin ly hôn và từ chối hòa giải; tại phiên tòa anh D đồng ý ly hôn. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài vì vậy cần xử công nhận thuận tình ly hôn giữa chị H, anh D là phù hợp thực tế và có căn cứ pháp luật.
[2]Về con chung: vợ chồng có hai con chung là cháu Đào Trung Đ, sinh ngày 27/9/2016 và Đào Hoài A sinh ngày 14/11/2017. Xét nguyện vọng xin nuôi con và để đảm bảo quyền, nghĩa vụ nuôi con của các đương sự và điều kiện nuôi con cần giao chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đào Hoài A và giao anh Đào Trung D trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đào Trung Đ cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, trưởng thành tự lập được. Chị H, anh D không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
[3]Về tài sản chung, công nợ, công sức: Đương sự không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.
[4]Về án phí ly hôn:chị Nguyễn Thị H, anh Đào Trung D mỗi người phải chịu 150.000đ; ghi nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị H xin chịu toàn bộ tiền án phí ly hôn của chị H và anh D.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ:
- Điều 28; 35; 39; 147 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Điều 55, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình;
- Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội.
1.Xửcông nhận thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị H và anh Đào Trung D.
2. Về con chung: Giao chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đào Hoài A sinh ngày 14/11/2017 và giao anh Đào Trung D trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đào Trung Đ, sinh ngày 27/9/2016 cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, trưởng thành, tự lập được. Chị Nguyễn Thị H, anh Đào Trung D không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Chị Nguyễn Thị H, anh Đào Trung D được quyền thăm hỏi, chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định của pháp luật. Chị H, anh D và các thành viên trong gia đình không được cản trở anh D, chị H trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.
3. Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị H, anh Đào Trung D mỗi người phải chịu 150.000đ; ghi nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị H xin chịu toàn bộ tiền án phí ly hôn của chị H và anh D tổng cộng 300.000đ. Số tiền tạm ứng án phí 300.000đ chị H đã nộp theo biên lai số 0005153 ngày 09/8/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Duy Tiên được đối trừ khi thi hành án.
Án xử công khai sơ thẩm; chị Nguyễn Thị H, anh Đào Trung D được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn, nuôi con số 16/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 16/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Duy Tiên - Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 13/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về