Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 01/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẤT ĐỎ, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 01/2022/HNGĐ-ST NGÀY 17/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 04 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đất Đỏ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 186/2021/TB-TLVA ngày 29 tháng 10 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 25 tháng 3 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Đinh Thị V, sinh năm: 1991; Nơi cư trú: Tổ 8, khu phố P, thị trấn PH, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. (có mặt)

2. Bị đơn: Ông Đặng Tiến D, sinh năm: 1990; Nơi cư trú: khu phố H, thị trấn PH, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 10/10/2021, bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Đinh Thị V trình bày:

Bà và ông D sống chung với nhau từ năm 2016 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Thắng Nhất, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Ông bà chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng ý kiến về mọi mặt, nhất là ông D ham mê cờ bạc, nợ nần, thường xuyên buộc bà phải trả nợ thay nên dẫn đến gây gỗ, cải vã và không thể hàn gắn nên ông bà đã ly thân từ đầu năm 2020. Tháng 6/2021, bà nộp đơn ly hôn; sau khi Tòa án hòa giải, bà rút đơn và đã trở về chung sống với ông D để cho ông cơ hội cũng như tạo điều kiện chăm sóc con. Tuy nhiên ông D không thay đổi mà mâu thuẫn ngày càng nghiêm trọng hơn. Nay, tình cảm vợ chồng không còn nên bà yêu cầu được ly hôn với ông D.

Về con chung: Bà và ông D chung sống có 01 con chung tên Đặng Đinh Bảo Nguyên, sinh ngày 25/4/2016. Từ khi vợ chồng ly thân đến nay, con chung sống cùng bà V. Bà yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyên, không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo biên bản ghi lời khai, biên bản hòa giả và tại phiên tòa, bị đơn ông Đặng Tiến D trình bày:

Ông D thống nhất với lời trình bày của bà V về quan hệ hôn nhân cũng như thời gian chung sống vợ chồng, con chung, tài sản chung, nợ chung. Trong quá trình chung sống, vợ chồng ông phát sinh rất nhiều mâu thuẫn mà hiện nay không thể hàn gắn được nên đã ly thân hơn 01 năm nay. Nguyên nhân là do ông làm ăn dẫn đến nợ nần, bà V không trả được nên hai vợ chồng hay xảy ra việc tranh cãi. Việc bà V yêu cầu ly hôn, ông D không đồng ý vì hiện nay vẫn còn tình cảm vợ chồng với bà V. Hơn nữa bà V đang còn nợ ông số tiền 200.000.000 đồng, khi nào bà V trả tiền, ông mới đồng ý ly hôn. Tuy nhiên đối với khoản nợ này, ông không yêu cầu Tòa án giải quyết, khi nào có yêu cầu ông sẽ khởi kiện sau.

Về con chung: Ông D xác nhận có 01 con chung tên Đặng Đinh Bảo Nguyên, sinh ngày 25/4/2016, từ khi ly thân tới nay, con chung đang sống cùng bà V. Bà V yêu cầu nuôi con, ông không đồng ý; ông D yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyên, không yêu cầu bà V cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Ý kiến của kiểm sát viên tại phiên tòa: Quá trình tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến trước khi khai mạc phiên tòa, Thẩm phán đã tiến hành đúng các quy định về thủ tục tố tụng được quy định tại Điều 48 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định tại chương XIV Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Những người tham gia tố tụng: nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình.

Về nội dung vụ án: Về quan hệ hôn nhân: Yêu cầu của bà Đinh Thị V xin ly hôn với ông Đặng Tiến D là có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, bà V được ly hôn với ông D; Về con chung: Từ khi ly thân đến nay, con chung do bà V trực tiếp nuôi dưỡng, ông D không chứng minh được bà V không có khả năng nuôi con nên đề nghị Hội đồng xét xử giao con chung cho bà V trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét; Về án phí: Bà V phải chịu án phí theo qui định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Về thẩm quyền và quan hệ pháp luật tranh chấp: Bà Đinh Thị V yêu cầu ly hôn với ông Đặng Tiến D, bị đơn đang cư trú tại huyện Đất Đỏ, thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 điều 35 và điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: Xét yêu cầu của nguyên đơn:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Đinh Thị V và ông Đặng Tiến D tự nguyện chung sống và có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 2, ngày 29/01/2016 của Ủy ban nhân dân phường Thắng Nhất, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, nên đây là hôn nhân hợp pháp.

Theo lời trình bày của bà V thì trong quá trình chung sống, giữa vợ chồng bà đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, cãi vã do ông D cờ bạc dẫn đến nợ nần, bà V phải thường xuyên gánh vác trả nợ nên dẫn đến bất đồng quan điểm, cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc. Mâu thuẫn này cũng được ông D thừa nhận nhưng ông không đồng ý ly hôn.

Hội đồng xét xử xét thấy: Quá trình giải quyết vụ án, tòa án đã tiến hành hòa giải nhiều lần nhưng giữa bà V và ông D đều không có ý định hàn gắn. Cụ thể: Bà V đã nộp đơn ly hôn ông D, sau khi được hỏa giải, bà V rút đơn và Tòa án huyện Đất Đỏ đã đình chỉ theo Quyết định số 64/2021/QĐST-HNGĐ ngày 29/9/2021 nhưng hai bên vẫn không thể chung sống với nhau mà phát sinh mâu thuẫn trầm trọng hơn. Tại phiên tòa, bà V kiên quyết xin ly hôn, ông D không đồng ý vì cho rằng còn tình cảm với vợ con, chỉ đồng ý ly hôn khi bà V trả cho ông số tiền 200.000.000 đồng. Đây là lý do không thỏa đáng, ông D đã không thể hiện được thiện chí mong muốn hàn gắn tình cảm khi bà V yêu cầu ly hôn cũng như ông đang tìm cách gây khó khăn cho bà V trong quá trình hòa giải. Từ đó xác định lý do không đồng ý ly hôn của ông D là không có cơ sở vì bản thân ông cũng không có ý định hàn gắn tình cảm vợ chồng; bà V, ông D đều không còn quan tâm đến hạnh phúc gia đình, tình trạng mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà V.

[2.2] Về con chung: Ông D, bà V có 01 con chung tên Đặng Đinh Bảo Nguyên, sinh ngày 25/4/2016. Từ khi bà V, ông D ly thân, con chung vẫn do bà V trực tiếp nuôi dưỡng nên bà V có nguyện vọng tiếp tục nuôi dưỡng con chung.

Qua chứng cứ bà V cung cấp, thể hiện: bà V hiện là giáo viên trường Tiểu học Phước Hải 3, có thu nhập ổn định; còn ông D không chứng minh được khả năng tài chính của mình. Hơn nữa, từ khi ly thân đến nay, con chung vẫn do bà V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; ông D xác nhận từ đó đến nay không phụ giúp bà V nuôi con nên cần chấp nhận yêu cầu của bà V được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung cho đến tuổi trưởng thành và đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà V không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4] Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xét.

[2.5] Về án phí: Bà V phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của bà Đinh Thị V được ly hôn với ông Đặng Tiến D.

2. Về con chung: Giao con chung tên Đặng Đinh Bảo Nguyên, sinh ngày 25/4/2016 cho bà V trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục sau khi ly hôn đến khi trưởng thành (18 tuổi). Ghi nhận sự tự nguyện của bà V không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, ông D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được quyền cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó.

Vì lợi ích của con chung, trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Bà Đinh Thị V phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0009518 ngày 26/10/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đất Đỏ. Bà V đã nộp xong án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

116
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 01/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:01/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đất Đỏ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;