Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con (mẹ được quyền nuôi dưỡng 02 con theo nguyện vọng của con) số 36/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 36/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 18 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 36/2022/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 02 năm 2022 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 74/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 50/2022/QĐST-HNGĐ ngày 21 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị X, sinh ngày 01 tháng 01 năm 1976 (có mặt);

2. Bị đơn: Anh Văng Văn Th, sinh năm 1975 (vắng mặt);

Cùng địa chỉ: ấp HX, xã NY, huyện AB, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện ngày 28/8/2020 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Thị X trình bày và yêu cầu như sau:

Chị và anh Văng Văn Th chung sống với nhau vào năm 2006, có tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương, không có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Chị và anh Văng Văn Th chung sống có 02 người con chung tên: Nguyễn Văn D, sinh ngày 10/12/2007 và Nguyễn Văn V, sinh ngày 29/8/2014 hiện nay đang chung sống với chị; về tài sản chung, chị và anh Văng Văn Th không có tài sản chung và không tranh chấp; về nợ, chị và anh Văng Văn Th không có nợ người khác, người khác không nợ anh chị. Quá trình chung sống chị và anh Văng Văn Th sống không hòa hợp, không hạnh phúc, chị cố gắng dàn xếp chung sống với nhau nhưng vẫn không có kết quả, anh Văng Văn Th không quan tâm đến vợ con nên chị và anh Văng Văn Th sống ly thân với nhau từ năm 2019 cho đến nay. Chị thấy, chị và anh Văng Văn Th không còn tình cảm vợ chồng nên chị yêu cầu giải quyết như sau: Về quan hệ hôn nhận, chị yêu cầu được ly hôn với anh Văng Văn Th. Về quan hệ con chung, khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi dưỡng 02 con chung tên Nguyễn Văn D, sinh ngày 10/12/2007 và Nguyễn Văn V, sinh ngày 29/8/2014 đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được theo nguyện vọng của các con anh chị và chị không yêu cầu anh Văng Văn Th cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ, chị không yêu cầu giải quyết.

* Tại bản trình bày nguyện vọng ngày 28/02/2022 của Nguyễn Văn D trình bày:

Nguyễn Văn D là con của anh Văng Văn Th và chị Nguyễn Thị X, từ khi anh Văng Văn Th và chị Nguyễn Thị X không chung sống với nhau thì Nguyễn Văn D chung sống với mẹ là chị Nguyễn Thị X, tại ấp HX, xã NY, huyện AB, tỉnh Kiên Giang. Nếu cha mẹ ly hôn, Nguyễn Văn D có nguyện vọng chung sống với mẹ là chị Nguyễn Thị X.

* Tại bản trình bày nguyện vọng ngày 28/02/2022 của Nguyễn Văn V trình bày:

Nguyễn Văn V là con của anh Văng Văn Th và chị Nguyễn Thị X, từ khi anh Văng Văn Th và chị Nguyễn Thị X không chung sống với nhau thì Nguyễn Văn V chung sống với mẹ là chị Nguyễn Thị X, tại ấp HX, xã NY, huyện AB, tỉnh Kiên Giang. Nếu cha mẹ ly hôn, Nguyễn Văn V có nguyện vọng chung sống với mẹ là chị Nguyễn Thị X.

* Tại biên bản xác minh ngày 28/02/2022, về nguyên nhân mâu thuẫn và tình trạng hôn nhân:

Anh Văng Văn Th, cư trú tại ấp HX, xã NY, huyện AB, tỉnh Kiên Giang hiện nay không có mặt ở nhà và địa phương, khi đi không cung cấp địa chỉ mới ở đâu, nhưng anh Văng Văn Th thường xuyên về nhà tại ấp HX, xã NY, huyện AB, tỉnh Kiên Giang. Anh Văng Văn Th và chị Nguyễn Thị X chung sống với nhau thường xuyên cư cải, bất hòa do anh Văng Văn Th không lo làm ăn kinh tế trong gia đình, hôn nhân không hạnh phúc. Từ khi chị Nguyễn Thị X và anh Văng Văn Th ly thân đến nay, chị Nguyễn Thị X nuôi dưỡng 02 người con chung của anh chị.

* Bị đơn anh Văng Văn Th: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ cho anh Văng Văn Th nhưng anh không có ý kiến gì và cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì đối với yêu cầu khởi kiện ly hôn và nuôi con của chị Nguyễn Thị X nên Toà án tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

* Tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án gồm: Giấy chứng minh nhân dân tên Nguyễn Thị X, sổ hộ khẩu; Đơn xin xác nhận chưa đăng ký kết hôn ngày 18 tháng 8 năm 2020 của chị Nguyễn Thị X; Trích lục khai sinh Nguyễn Văn D; Giấy khai sinh Nguyễn Văn V; Đơn xin xác nhận tình trạng cư trú của đương sự ngày 17 tháng 8 năm 2020 của chị Nguyễn Thị X; Biên bản xác minh ngày 28/02/2022 của Tòa án nhân dân huyện An Biên; 02 Văn bản trình bày nguyện vọng ngày 28/02/2022 của Nguyễn Văn D và Nguyễn Văn V; Căn cước công dân tên Nguyễn Thị X.

* Tại phiên tòa:

Nguyên đơn chị Nguyễn Thị X yêu cầu được ly hôn với anh Văng Văn Th; về quan hệ con chung, khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi dưỡng 02 người con chung tên: Nguyễn Văn D, sinh ngày 10/12/2007 và Nguyễn Văn V, sinh ngày 29/8/2014 đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được theo nguyện vọng của Nguyễn Văn D và Nguyễn Văn V, chị không yêu cầu anh Văng Văn Th cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung và nợ không có, chị không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn anh Văng Văn Th vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

- Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án thực hiện các thủ tục tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử, xác định mối quan hệ pháp luật, đưa tư cách đương sự tham gia tố tụng, về thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh, tống đạt các văn bản tố tụng và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện Kiểm sát đúng trình tự thủ tục và thời gian quy định tại khoản 1 Điều 35, Điều 48, Điều 51, Điều 68, các Điều 208, 209, 210, 211, 239 và Điều 247 của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do, đề nghị xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Xét đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị X yêu cầu được ly hôn với anh Văng Văn Th và nuôi dưỡng con chung là có căn cứ chấp nhận, do chị Nguyễn Thị X và anh Văng Văn Th chung sống với nhau không có đăng ký kết hôn nên đề nghị không công nhận quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị X và anh Văng Văn Th là vợ chồng. Về quan hệ con chung, khi ly hôn giao 02 người con chung của anh chị tên Nguyễn Văn D và Nguyễn Văn V cho chị Nguyễn Thị X tiếp tục nuôi dưỡng theo nguyện vọng của Nguyễn Văn D và Nguyễn Văn V. Về cấp dưỡng nuôi con, chị Nguyễn Thị X không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét. Về tài sản chung và nợ, chị Nguyễn Thị X tự xác định và cam kết không có tài sản chung, không tranh chấp và không có nợ, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết đề nghị Hội đồng xét xử miễn xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị X yêu cầu được ly hôn với anh Văng Văn Th và tranh chấp về nuôi con. Nguyên đơn và bị đơn đều cư trú tại ấp HX, xã NY, huyện AB, tỉnh Kiên Giang nên xác định đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Văng Văn Th biết và ấn định thời gian để anh có ý kiến về việc chị Nguyễn Thị X khởi kiện ly hôn và nuôi con đối với anh nhưng anh không có ý kiến gì và cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Toà án tổ chức và thông báo cho các bên đương sự để tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh Văng Văn Th vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do. Như vậy, đây là thuộc trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 của Bộ luật tố tụng dân sự nên Toà án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung và tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho anh Văng Văn Th nhưng anh vẫn cố tình vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do. Đồng thời, tại phiên toà lần thứ hai chị Nguyễn Thị X không yêu cầu hoãn phiên toà. Vì vậy, Toà án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh Văng Văn Th theo quy định tại khoản 2 Điều 227, điểm b khoản 1 Điều 238 và Điều 241 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung: Xét về quan hệ hôn nhân, chị Nguyễn Thị X và anh Văng Văn Th chung sống với nhau vào năm 2006, có tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương, đến nay anh chị không có đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Ủy ban nhân dân xã, thị trấn nơi anh chị cư trú) là vi phạm quy định về đăng ký kết hôn của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và năm 2014. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, chị Nguyễn Thị X yêu cầu được ly hôn với anh Văng Văn Th nhưng anh Văng Văn Th không có ý kiến gì và anh chị cũng không có đăng ký kết hôn. Do đó, Hội đồng xét xử không công nhận quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị X và anh Văng Văn Th là vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Về quan hệ con chung, chị Nguyễn Thị X và anh Văng Văn Th có 02 người con chung tên: Nguyễn Văn D, sinh ngày 10/12/2007 và Nguyễn Văn V, sinh ngày 29/8/2014 hiện nay đang chung sống với chị. Khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng 02 người con chung đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được theo nguyện vọng của các con anh chị, anh Văng Văn Th không có ý kiến gì, các con chung của anh chị từ khi anh chị ly thân đến nay sống chung với chị Nguyễn Thị X đã thích nghi với cuộc sống hiện tại và có ý kiến nguyện vọng chung sống với chị Nguyễn Thị X. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên, yêu cầu của chị Nguyễn Thị X và nguyện vọng của các con anh chị, giao các con chung của anh chị tên: Nguyễn Văn D, sinh ngày 10/12/2007 và Nguyễn Văn V, sinh ngày 29/8/2014 cho chị Nguyễn Thị X tiếp tục nuôi dưỡng đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được theo nguyện vọng của Nguyễn Văn D và Nguyễn Văn V là phù hợp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con, chị Nguyễn Thị X không yêu cầu anh Văng Văn Th cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

Về tài sản chung và nợ, chị Nguyễn Thị X tự xác định, anh chị không có tranh chấp, không yêu cầu giải quyết và chị Nguyễn Thị X cam kết chị và anh Văng Văn Th không có nợ người khác, người khác không có nợ anh chị, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Nếu sau này có phát sinh chia tài sản chung và nợ thì được xem xét giải quyết bằng vụ kiện khác.

[4] Về án phí, nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu nhưng được trừ vào số tiền đã tạm ứng án phí theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 207, khoản 2 Điều 227, điểm b khoản 1 Điều 238, Điều 241, Điều 266 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53, khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị X và anh Văng Văn Th là vợ chồng.

2. Về quan hệ con chung: Giao 02 người con chung của anh chị tên: 02 con chung tên Nguyễn Văn D, sinh ngày 10/12/2007 và Nguyễn Văn V, sinh ngày 29/8/2014 cho chị Nguyễn Thị X tiếp tục nuôi dưỡng đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được theo nguyện vọng của các con anh chị và hiện nay Nguyễn Văn D và Nguyễn Văn V đang sống chung với chị Nguyễn Thị X.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị X không yêu cầu anh Văng Văn Th cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

4. Về tài sản chung và nợ: Chị Nguyễn Thị X tự xác định, anh chị không có tranh chấp, không yêu cầu giải quyết và chị Nguyễn Thị X cam kết chị và anh Văng Văn Th không có nợ người khác, người khác không có nợ anh chị, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Nếu sau này có phát sinh chia tài sản chung và nợ thì được xem xét giải quyết bằng vụ kiện khác.

5. Về án phí: Buộc chị Nguyễn Thị X phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 0004687 ngày 24 tháng 02 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang. Chị Nguyễn Thị X đã nộp xong án phí dân sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án 18/7/2022. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con (mẹ được quyền nuôi dưỡng 02 con theo nguyện vọng của con) số 36/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:36/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;