Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 48/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA - TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 48/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 22 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 35/2021/TLST- HNGĐ ngày 29 tháng 10 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 70/2022/QĐXX - ST ngày 07 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự :

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H - Sinh năm 1979 “ Có mặt”

Bị đơn : Anh Nguyễn Văn D - Sinh năm 1971 “ Có mặt” Cùng địa chỉ: Phố 1, phường Q, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn D kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn vào ngày 01/4/2002 tại UBND phường Quảng Hưng, Thành phố Thanh Hóa. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận đến năm 2020 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là vợ chồng hay cãi nhau, anh D sống không có trách nhiệm, không chịu khó làm ăn, thường xuyên đánh đập con cái, mặc dù chị đã khuyên bảo nhiều lần nhưng anh D không thay đổi. Nay chị Hằng xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chị H yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa giải quyết cho chị được ly hôn với anh D.

Về con: Chị H và anh D có 2 con chung là cháu Nguyễn Thị H, sinh ngày 20/12/2002 ( đã thành niên) và cháu Nguyễn Trường A, sinh ngày 08/11/2007.

Chị H đề nghị Tòa giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu A và không yêu cầu anh D phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và công nợ: Chị Hằng không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn anh Nguyễn Văn Dinh trình bày:

Về hôn nhân: Thời gian kết hôn, điều kiện kết hôn anh D đồng ý như chị H trình bày. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, lý do chị H không tôn trọng anh, vì anh không có thu nhập tài chính ổn định dẫn đến bất đồng quan điểm sống và nuôi dậy con cái. Tuy nhiên chỉ là những mâu thuẫn nhỏ trong cuôc sống, chưa đến mức độ phải ly hôn. Do vậy, nay chị H có đơn khởi kiện ly hôn, anh D không đồng ý ly hôn, đề nghị Tòa án bác đơn ly hôn của chị H.

Về con: Anh và chị H có 2 con chung là cháu Nguyễn Thị H, sinh ngày 20/12/2002 (đã thành niên) và cháu Nguyễn Trường A, sinh ngày 08/11/2007. Anh D mong muốn vợ chồng đoàn tụ, nếu chị H cương quyết ly hôn, anh D xin được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trường A, không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con. Nếu cháu Trường A có nguyện vọng ở với chị Hằng thì anh cũng tôn trọng ý kiến của cháu.

Về tài sản, công nợ: Anh D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Toà án tiến hành thu thập chứng cứ. Tại biên bản thu thập chứng cứ do địa phương cung cấp thể hiện: Quá trình anh D và chị H sinh sống tại địa phương có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân cụ thể địa phương không nắm được. Nay chị H có đơn xin ly hôn, đề nghị Tòa án căn cứ pháp luật để giải quyết.

Về con: Anh D và chị H có 02 con chung, việc giao con cho ai trực tiếp nuôi dưỡng đề nghị Tòa án căn cứ giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện VKS phát biểu quan điểm giải quyết vụ án. Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của đương sự, kể từ khi toà án thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định. Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Hằng và anh Nguyễn Văn Dinh kết hôn với nhau năm 2002 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Quá trình anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hòa hợp, trong cuộc sống vợ chồng không có tiếng nói chung. Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn chị H tha thiết xin được ly hôn.

Tại bản tự khai, quá trình hòa giải cũng như tại phiên tòa hôm nay, anh D xác định vợ chồng cũng có mâu thuẫn, nhưng anh vẫn mong muốn vợ chồng đoàn tụ, anh D không đồng ý ly hôn.

Tòa án cũng đã tiến hành phân tích, hòa giải, và để cho anh chị có thời gian dài suy nghĩ và hàn gắn, tuy nhiên đến nay chị Hằng vẫn xác định không còn tình cảm với anh D và chị H đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn.

Xét mâu thuẫn giữa chị H và anh D đã đến mức trầm trọng. Do đó nếu buộc anh chị về đoàn tụ thì cuộc sống vợ chồng cũng khó có thể cải thiện được. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 luật HN&GĐ xử cho chị Hằng được ly hôn anh D là phù hợp pháp luật.

[2] Về con: Vợ chồng có 2 con chung là cháu Nguyễn Thị H, sinh ngày 20/12/2002 (đã thành niên) và cháu Nguyễn Trường A, sinh ngày 08/11/2007. Chị H đề nghị Tòa giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu A và không yêu cầu anh D phải cấp dưỡng nuôi con. Anh D mong muốn vợ chồng đoàn tụ, nếu chị H cương quyết ly hôn, anh D xin được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trường A, không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con, trường hợp cháu A có nguyện vọng ở với mẹ thì anh cũng tôn trọng nguyện vọng của cháu.

HĐXX xét thấy, cả anh D và chị H đều có mong muốn được nuôi con chung. Tuy nhiên, việc giao con cho ai trực tiếp nuôi dưỡng phải đảm bảo cuộc sống tốt nhất cho con chưa thành niên, chị H chứng minh là người có thu nhập ổn định với doanh thu từ 12.000.000đ – 15.000.000đ/tháng. Trong khi bản thân anh D cũng công nhận không có thu nhập ổn định, mặt khác cháu Nguyễn Trường A cũng có nguyện vọng được ở với mẹ. Do đó cần giao cháu A cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Về yêu cầu cấp dưỡng: Chị H không yêu cầu cấp dưỡng trên cơ sở tự nguyện, phù hợp pháp luật nên được chấp nhận.

[3] Về tài sản và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án, chị Hằng phải chịu án phí dân sự sơ thẩm;

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 56; Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án;

Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Nguyễn Văn D.

Về con: Công nhận cháu Nguyễn Thị H, sinh ngày 20/12/2002 (đã thành niên) và cháu Nguyễn Trường A, sinh ngày 08/11/2007 là con chung của chị H và anh D. Giao cháu Nguyễn Trường A cho chị Hằng trực tiếp nuôi dưỡng, anh D không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh Nguyễn Văn D có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về tài sản và công nợ: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Án phí: Chị Nguyễn Thị H phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp theo biên lai số AA/2021/0001313 ngày 27/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Thanh Hóa (chị H đã nộp đủ án phí).

Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Văn D có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 48/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:48/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;