Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 19/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TƯ NGHĨA, TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 19/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 24 tháng 9 năm 2021, tại Hội trường xử án Tòa án nhân dân huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 97/2021/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 4 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2021/QĐXXST-DS ngày 16 tháng 8 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 58/2021/QĐST-DS ngày 06 tháng 9 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thanh N, sinh năm: 1968.

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm: 1976.

Cùng địa chỉ: Xóm a, thôn H, xã N, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.

Ông N vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt; bà T vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện ngày 24/02/2021, đơn khởi kiện bổ sung ngày 19/4/2021 và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nguyên đơn ông Nguyễn Thanh N, trình bày:

Ông và bà Nguyễn Thị T tổ chức lễ cưới và sống chung với nhau từ năm 1999. Đến năm 2010 vợ chồng ông mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Cuộc sống chung hạnh phúc được thời gian đầu thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do hai vợ chồng bất đồng quan điểm, không hợp tính tình, thường xuyên cãi vã, không có tiếng nói chung trong cuộc sống. Hiện hai vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2018, phần ai nấy sống, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Nhận thấy, mâu thuẫn tình cảm giữa hai vợ chồng đã quá trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, ông N không còn tình cảm với bà T nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Nguyễn Thị T.

Về con chung: Ông N trình bày, vợ chồng có 03 con chung tên là Nguyễn Thị Khánh L, sinh ngày 27/02/2000; Nguyễn Thị Nhật V, sinh ngày: 16/7/2002 và Nguyễn Nam Hạnh P, sinh ngày: 18/01/2009. Hai cháu, L và cháu V hiện đã trên 18 tuổi, ông N không yêu cầu giải quyết. Hiện cháu P đang sống cùng bà T. Khi ly hôn, ông N yêu cầu Tòa án giao cháu Nguyễn Nam Hạnh P cho bà T nuôi dưỡng, ông N không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Ông N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Ông N trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác, nhưng bà T không có văn bản trình bày ý kiến, không đến Tòa làm việc về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Ý kiến của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015.

Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, bị đơn từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Nguyên đơn thực hiện đúng theo quy định tại Điều 70 và Điều 71 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, nhưng không trình bày ý kiến, bị đơn vắng mặt tất cả các lần theo giấy triệu tập của Tòa nhưng không có lý do. Vì vậy, bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 70 và Điều 72 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh N. Đối với 03 con chung, tên là Nguyễn Thị Khánh L, sinh ngày 27/02/2000; Nguyễn Thị Nhật V, sinh ngày: 16/07/2002 và Nguyễn Nam Hạnh P, sinh ngày: 18/01/2009. Cháu L và cháu V đã thành niên nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét, hiện cháu P đang sống cùng bà Tiết, cháu có nguyện vọng khi ông N và bà ly hôn được sống cùng bà T, ông N có yêu cầu giao cháu P cho bà T nuôi dưỡng nên giao cháu P cho bà T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng; ông N tạm thời không cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung ông N không yêu cầu Tòa án giải quyết; về nợ chung ông N trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết do đó đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án:

Bị đơn bà Nguyễn Thị T hiện đang sinh sống tại huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi theo quy định tại Khoản 1 Điều 28; điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015.

[2] Về tố tụng: Bà Nguyễn Thị T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng gồm: Thông báo thụ lý vụ án số: 97/2021/TLST-HNGĐ, ngày 20/4/2021; Thông báo về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ về yêu cầu độc lập, yêu cầu phản tố và giao nộp tài liệu, chứng cứ số 109/TB-TA ngày 12/5/2021; giấy triệu tập số: 128/GTrT-TA ngày 31/5/2021; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải số: 41 /TB-TA ngày 15/7/2021;

Thông báo về việc thu thập được tài liệu, chứng cứ số 333/TB-TA ngày 15/7/2021;

Giấy triệu tập lần 2 số 285/GTrT-TA ngày 15/7/2021; Giấy triệu tập lần 3 số 360/GTr-TA ngày 30/7/2021; Thông báo hoãn phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải số: 43/TB-TA ngày 30/7/2021; Thông báo về kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ số: 385/TB-TA ngày 16/8/2021; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2021/QĐXXST-DS ngày 16 tháng 8 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 58/2021/QĐST-DS ngày 06/9/2021, nhưng bà T không có văn bản trình bày ý kiến cũng như vắng mặt không có lý do trong hai lần mở phiên tòa, ông N có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông N và bà T là phù hợp quy định pháp luật.

[3] Về nội dung:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Thanh N và bà Nguyễn Thị T tự nguyện đăng ký kết hôn vào năm 2010 tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi và được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn. Quan hệ hôn nhân giữa ông N và bà T là hợp pháp, được quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Về mâu thuẫn vợ chồng, Hội đồng xét xử xét thấy:

Trong quá trình chung sống, giữa ông N và bà T có xảy ra mâu thuẫn dẫn đến sống ly thân từ năm 2018 đến nay. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập bà T làm việc và tiến hành hòa giải nhằm mục đích động viên ông N và bà T đoàn tụ, nhưng bà T không gửi văn bản trình bày ý kiến và không đến tham gia phiên hòa giải, điều này chứng tỏ bà T không quan tâm đến sự hàn gắn trong quan hệ vợ chồng, phù hợp với lời trình bày của ông N là quan hệ tình cảm vợ chồng đã lâm vào tình trạng mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh N, cho ông Nguyễn Thanh N được ly hôn với bà Nguyễn Thị T là phù hợp với quy định Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[3.2] Về con chung: Ông N và bà T có 03 con chung, tên là Nguyễn Thị Khánh L, sinh ngày 27/02/2000; Nguyễn Thị Nhật V, sinh ngày: 16/07/2002 và 3 Nguyễn Nam Hạnh P, sinh ngày: 18/01/2009. Cháu L và cháu V đã thành niên nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Hội đồng xét xử xét thấy, cháu P hiện đang được bà T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; cháu P có nguyện vọng khi ông N và bà T ly hôn, được sống với bà T và ông N cũng yêu cầu giao cháu P cho bà T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Vì vậy, để đảm bảo lợi ích về mọi mặt của cháu P, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Thanh N, giao cháu P cho bà Nguyễn Thị T tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với quy định tại Khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Đối với yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con: Ông N tạm thời không cấp dưỡng nuôi con.

[3.3] Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết; về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không nhận định.

[4] Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa phù hợp với nhận định, phân tích, đánh giá của Hội đồng xét xử nên được ghi nhận.

[5] Về án phí: Ông Nguyễn Thanh N phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 271, khoản 1 Điều 273, Điều 278, khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015; Căn cứ vào Điều 8, Điều 9; Điều 51; khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Thanh N. Ông Nguyễn Thanh N được ly hôn với bà Nguyễn Thị T.

2. Về con chung: Giao con chung tên là Nguyễn Nam Hạnh P, sinh ngày:

18/01/2009 cho bà T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Ông Nguyễn Thanh N tạm thời không cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được quyền cản trở.

Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định tại Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Khi có lý do chính đáng, ông N và bà T có thể thỏa thuận giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

4 3. Về án phí: Ông Nguyễn Thanh N phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) ông N đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2018/0007152 ngày 20/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.

4. Quyền kháng cáo: Ông Nguyễn Thanh N và bà Nguyễn Thị T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

251
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 19/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:19/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tư Nghĩa - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;