TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHIÊM HOÁ, TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 312/2024/HNGĐ-ST NGÀY 21/11/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 21 tháng 11 năm 2024 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 249/2024/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 10 năm 2024, về việc: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 11 năm 2024 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị P, sinh năm 1990. Địa chỉ: Thôn NL, xã PB, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang, (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).
* Bị đơn: Anh Đặng Văn H, sinh năm 1989. Địa chỉ: Thôn NL, xã PB, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang; Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang, (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 13/9/2024, nội dung bản tự khai, biên bản ghi lời khai và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Hoàng Thị P trình bày:
- Về hôn nhân: Chị Hoàng Thị P và anh Đặng Văn H qua tự nguyện, tự do tìm hiểu đã kết hôn vào năm 2009 và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã PB, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang theo Giấy chứng nhận kết hôn số: 48 - Quyển số: 02 ngày 29/10/2009. Sau khi kết hôn chị P và anh H chung sống cùng bố mẹ đẻ của anh H tại thôn NC, xã TP, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Đến năm 2015, chị P và anh H dọn ra ở riêng tại thôn NL, xã PB, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2022 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chị P cho rằng anh H ham chơi, hay tụ tập rượu chè cùng bạn bè, không phụ giúp chị P chăm lo cho con cái và gia đình nên thường xuyên xảy ra cãi vã. Anh H trong lúc say rượu đã có hành vi đốt nhà của chị P và anh H đang ở, chính quyền địa phương và Công an xã PB đã can thiệp sau đó chị P vì nghĩ cho con cái nên đã tha thứ và cho anh H thêm cơ hội để sửa chữa. Đến ngày 01/9/2024, anh H lại tiếp tục tụ tập rượu chè do có bức xúc trong người nên đã có hành vi đốt xe máy của chị P, ngày 10/9/2024 anh H lại có hành vi đốt nhà của chị P và anh H đang ở. Ngày 13/9/2024 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chiêm Hóa đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và ra ra Lệnh bắt bị can để tạm giam đối với anh H. Nay anh Đặng Văn H đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. Chị P và anh H đã sống ly thân, chị P xác định tình cảm vợ chồng giữa chị P và anh H đã hết, mâu thuẫn đã trầm trọng, yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Đặng Văn H.
- Về con chung: Chị Hoàng Thị P và anh Đặng Văn H có 02 con chung là cháu Đặng Mai H, sinh ngày 06/11/2009 và Đặng Hoàng Trúc D, sinh ngày 22/4/2021. Chị P có nguyện vọng là người trược tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục 02 con chung, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung sau khi ly hôn.
- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Toà án giải quyết.
- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Toà án giải quyết.
Tại biên bản ghi lời khai và quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Đặng Văn H nêu quan điểm:
- Về hôn nhân: Anh Đặng Văn H và chị Hoàng Thị P qua tự nguyện, tự do tìm hiểu đã kết hôn vào năm 2009 và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã PB, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang. Sau khi kết hôn chị P và anh H chung sống cùng bố mẹ đẻ của anh H tại thôn NC, xã TP, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Đến năm 2015, anh H và chị P dọn ra ở riêng tại thôn NL, xã PB, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Trong quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc không xảy ra mâu thuẫn lớn, cho đến năm 2022 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân anh H cho rằng giữa anh H và chị P bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên xảy ra cãi vã, do bực tức anh H đã hủy hoại đốt các tài sản của gia đình. Vào tháng 9/2024 anh H bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chiêm Hóa bắt tạm giam về tội hủy hoại tài sản hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. Nay chị Hoàng Thị P có đơn xin ly hôn tại Tòa án, anh H nhất trí ly hôn vì xác định mâu thuẫn giữa anh H và chị P đã trầm trọng, không thể khắc phục được.
- Về con chung: Anh Đặng Văn H và chị Hoàng Thị P có 02 con chung là cháu Đặng Mai H, sinh ngày 06/11/2009 và Đặng Hoàng Trúc D, sinh ngày 22/4/2021. Do hiện nay anh Đặng Văn H đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang nên nhất trí để chị Hoàng Thị P là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục 02 con chung. Anh H không cấp dưỡng nuôi con chung sau khi ly hôn.
- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Toà án giải quyết.
- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Toà án giải quyết.
Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Hoàng Thị P và bị đơn anh Đặng Văn H đều vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt giữ nguyên ý kiến, quan điểm như trong quá trình giải quyết về quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung và nợ chung.
Tại biên bản ghi ý kiến của con chưa thành niên ngày 17/10/2024 cháu Đặng Mai H, sinh ngày 06/11/2009 trình bày sau khi chị Hoàng Thị P và anh Đặng Văn H ly hôn nguyện vọng mong muốn được mẹ trực tiếp nuôi dưỡng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hoá phát biểu quan điểm tại phiên tòa: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với đương sự: Nguyên đơn, bị đơn thực H đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Về nội dung vụ án: Đề nghị căn cứ các Điều 51, 53, 56, 57, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; Điều 143, 144, 147 các Điều 227, 228, 238, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Về hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Hoàng Thị P, cho chị Hoàng Thị P được ly hôn anh Đặng Văn H.
Về con chung: Giao cháu Đặng Mai H, sinh ngày 06/11/2009 và cháu Đặng Hoàng Trúc D, sinh ngày 22/4/2021 cho chị Hoàng Thị P được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Anh Đặng Văn H không phải cấp dưỡng nuôi con chung sau ly hôn và có quyền, nghĩa vụ được đi lại, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung sau ly hôn mà không ai được cản trở.
Về tài sản chung và nợ chung: Đều không có, không đề cập xem xét.
Về án phí: Chị Hoàng Thị P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn theo quy định; anh Đặng Văn H không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn.
Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Về khắc phục kiến nghị vi phạm trong tố tụng: Không.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về Tố tụng: Chị Hoàng Thị P khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Chiêm Hóa giải quyết việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn đối với anh Đặng Văn H; Anh Đặng Văn H có hộ khẩu thường trú tại thôn NL, xã PB, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Căn cứ theo khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì đây là tranh chấp Hôn nhân và gia đình về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chiêm Hóa.
Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Hoàng Thị P vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt) và giữ nguyên ý kiến quan điểm như trong đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Đặng Văn H vắng mặt do đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang (có đơn đề nghị Tòa án giải quyết, xét xử vắng mặt) giữ nguyên ý kiến, quan điểm như trong biên bản lấy lời khai và quá trình giải quyết, Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 227, 228, 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, quyết định xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn theo đúng quy định của pháp luật.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Hoàng Thị P và anh Đặng Văn H là hợp pháp, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã PB, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Sau khi kết hôn chị P và anh H chung sống cùng bố mẹ đẻ của anh H tại thôn NC, xã TP, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Đến năm 2015, anh H và chị P dọn ra ở riêng tại thôn NL, xã PB, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2022 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chị P cho rằng anh H ham chơi, hay tụ tập rượu chè cùng bạn bè, không chăm lo cho gia đình nên thường xuyên xảy ra cãi vã. Anh H đã có hành vi hủy hoại các tài sản của gia đình và nay đang bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chiêm Hóa bắt tạm giam về tội hủy hoại tài sản, H đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang, anh H và chị P đã sống ly thân. Chị Hoàng Thị P xác định tình cảm vợ chồng thực sự đã hết và mâu thuẫn đã trầm trọng, yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn đối với anh Đặng Văn H. Anh Đặng Văn H xác nhận quá trình kết hôn và chung sống đúng như chị P trình bày, nguyên nhân mâu thuẫn giữa anh H và chị P, anh H cho rằng do bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên xảy ra cãi vã dẫn đến mâu thuẫn, anh H xác định mâu thuẫn giữa anh và chị P đã trầm trọng, không thể khắc phục được, anh H nhất trí ly hôn với chị P.
Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị P và anh H là thực tế, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị P và anh H thực sự đã rất trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử cần áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 227, 228, 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; Các Điều 51, 53, 56, 57 Luật Hôn nhân và gia đình cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị P, xử cho chị P được ly hôn với anh H.
[2.2] Về con chung: Chị Hoàng Thị P và anh Đặng Văn H có 02 con chung là cháu Đặng Mai H, sinh ngày 06/11/2009 và Đặng Hoàng Trúc D, sinh ngày 22/4/2021. Sau khi ly hôn chị P có nguyện vọng là người trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cháu Đặng Mai H và cháu Đặng Hoàng Trúc D, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung. Anh H nhất trí chị P là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục 02 con chung do H nay anh H đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang, nguyện vọng của cháu H mong muốn được ở với chị P. Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình, cần xử giao cháu Đặng Mai H và cháu Đặng Hoàng Trúc D cho chị Hoàng Thị P được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Anh Đặng Văn H không phải cấp dưỡng nuôi con chung sau ly hôn và có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung sau ly hôn mà không ai được cản trở.
[2.3] Về tài sản chung: Không có; Hội đồng xét xử không xem xét. [2.4] Về nợ chung: Không có; Hội đồng xét xử không xem xét.
[3] Về án phí: Căn cứ các Điều 143, 144, 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; chị Hoàng Thị P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn theo quy định; anh Đặng Văn H không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn.
[4] Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự, các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 143, 144, 147; các Điều 227, 228, 238, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Các Điều 51, 53, 56, 57, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử :
1. Về Hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của chị Hoàng Thị P, cho chị Hoàng Thị P được ly hôn anh Đặng Văn H.
2. Về con chung: Giao cháu Đặng Mai H, sinh ngày 06/11/2009 và cháu Đặng Hoàng Trúc D, sinh ngày 22/4/2021 cho chị Hoàng Thị P được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Anh Đặng Văn H không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung sau ly hôn mà không ai được cản trở.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
3. Về án phí: Chị Hoàng Thị P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo giấy thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 000001940668 ngày 03/10/2024 của Công ty Cổ phần thanh toán quốc gia Việt Nam và theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000634 ngày 08/10/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang (chị P đã nộp đủ tiền án phí).
Anh Đặng Văn H không phải nộp án phí dân sự sơ thẩm ly hôn.
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai./.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 312/2024/HNGĐ-ST
| Số hiệu: | 312/2024/HNGĐ-ST |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chiêm Hóa - Tuyên Quang |
| Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
| Ngày ban hành: | 21/11/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về