TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN S, TỈNH LÀO CAI
BẢN ÁN 16/2024/HNGĐ-ST NGÀY 27/09/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 27 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện S, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 35/2024/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 7 năm 2024 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 8 năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa số 08/2024/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 8 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 13/2024/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 9 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Cư Seo S, năm sinh 1990 Địa chỉ nơi cư trú: Thôn O, C, huyện S, tỉnh Lào Cai. Vắng mặt (Có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt).
2. Bị đơn: Chị Giàng Thị H, năm sinh 1991 Địa chỉ nơi cư trú cuối cùng: Thôn O, C, huyện S, tỉnh Lào Cai. Vắng mặt lần 3 không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Tại đơn khởi kiện ngày 01 tháng 7 năm 2024, bản tự khai ngày 02 tháng 7 năm 2024 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Anh Cư Seo S trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Anh Cư Seo S và chị Giàng Thị H tự nguyện về chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2011, không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Đến ngày 07/3/2013, anh chị mới đăng ký kết hôn với nhau tại Uỷ ban nhân dân C, huyện S, tỉnh Lào Cai. Sau khi về chung sống cùng nhau, vợ chồng anh S3 về chung sống cùng với cha mẹ đẻ của anh tại thôn O, C, huyện S, tỉnh Lào Cai. Sau khi đăng ký kết hôn thì chị Hồ nhập khẩu vào gia đình anh S3. Quá trình chung sống, không biết vì lý do gì mà tháng 12/2015 (anh S3 không nhớ ngày) chị Hồ đã bỏ nhà đi đâu không ai biết, khi đi chị Hồ không nói cho ai; đến nay anh S3 và gia đình không có bất kỳ tin tức gì về chị Hồ. Anh S3 đã đi tìm chị Hồ ở nhà cha mẹ đẻ của chị và tìm kiếm nhiều nơi nhưng không có tin tức gì về chị Hồ. Vì vậy anh S3 đã làm đơn yêu cầu Toà án nhân dân huyện S giải quyết việc dân sự về việc yêu cầu tuyên bố chị Giàng Thị H mất tích để giải quyết việc cá nhân của anh. Toà án đã ban hành Quyết định sơ thẩm giải quyết việc dân sự v/v “Yêu cầu tuyên bố một người mất tích” số 02/2024/QĐST-DS ngày 10/6/2024 tuyên bố chị Hồ mất tích. Nay anh S3 xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh yêu cầu Toà án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Giàng Thị H để đảm bảo cuộc sống riêng của anh.
- Về nuôi con khi ly hôn: Quá trình chung sống, Anh Cư Seo S và chị Giàng Thị H có một người con chung là cháu Cư Văn D, sinh ngày 19/01/2013; cháu D đang ở cùng với anh S3. Nay anh S3 yêu cầu Toà án giải quyết cho anh được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu D cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Anh S3 không yêu cầu Toà án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con chung.
Về điều kiện nuôi con khi ly hôn: Anh S3 là lao động tự do, công việc chính là trồng trọt, chăn nuôi và đi làm thuê thu nhập được 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng)/tháng; chị Hồ đang bị Toà án tuyên bố mất tích; tại địa phương mức nuôi đưỡng cháu D là 1.000.000 đồng (Một triệu đồng)/tháng nên anh S3 hoàn toàn đủ điều kiện nuôi con khi ly hôn.
- Về quan hệ tài sản; về nghĩa vụ tài sản: Anh Cư Seo S không yêu cầu Toà án giải quyết.
Kèm theo đơn khởi kiện nguyên đơn đã giao nộp cho Tòa án các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình là có căn cứ và hợp pháp.
2. Đối với bị đơn chị Giàng Thị H: Ngày 10/6/2024, Tòa án nhân dân huyện S đã ban hành Quyết định sơ thẩm giải quyết việc dân sự v/v “Yêu cầu tuyên bố một người mất tích” số 02/2024/QĐST-DS, tuyên bố chị Giàng Thị H mất tích. Sau khi thụ lý vụ án này, do chị Hồ vắng mặt ở nơi cư trú không rõ thời điểm trở về nên Toà án đã lập các biên bản về việc không thực hiện được tống đạt các văn bản tố tụng cho chị Hồ theo quy định đồng thời thực hiện thủ tục niêm yết công khai các văn bản cần tống đạt theo quy định của pháp luật.
3. Ý kiến của con chưa thành niên: Tại biên bản ghi ý kiến của con chưa thành niên ngày 23/7/2024, cháu Cư Văn D có ý kiến nếu Toà án giải quyết cho bố mẹ cháu ly hôn thì cháu có nguyện vọng ở cùng bố cháu để bố cháu trực tiếp nuôi dưỡng cháu.
Quá trình giải quyết vụ án, anh S3 đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải vụ án nên Tòa án đã lập biên bản không tiến hành hòa giải được về quan hệ hôn nhân, nuôi dưỡng con chung theo quy định của pháp luật.
4. Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên toà: Thẩm phán đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về thẩm quyền thụ lý vụ án đúng quy định các Điều 28, 35, 39; xác định tư cách tham gia tố tụng đúng quy định tại Điều 68; xác minh, thu thập chứng cứ, giao nhận, tiếp cận, công khai chứng cứ đúng quy định tại các Điều 93 đến Điều 97. Trình tự thụ lý, việc giao nhận thông báo thụ lý cho Viện kiểm sát và cho đương sự đúng quy định tại Điều 195, 196. Thời hạn chuẩn bị xét xử thực hiện đúng quy định tại Điều 203, 233. Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án. Trong quá trình giải quyết vụ án và phiên tòa hôm nay, nguyên đơn đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn mất tích nên chưa thực hiện được quyền và nghĩa vụ của mình.
Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 56; khoản 1,2 Điều 81; khoản 1,3 Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1,3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, xét xử theo hướng:
- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, giải quyết cho Anh Cư Seo S được ly hôn với chị Giàng Thị H.
- Về nuôi con khi ly hôn: Giao cháu Cư Văn D cho Anh Cư Seo S trực tiếp, trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Chị Giàng Thị H không phải cấp dưỡng nuôi con. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
- Về án phí và quyền kháng cáo: Tuyên án phí và quyền kháng cáo theo quy định Pháp luật.
Những yêu cầu, kiến nghị khắc phục vi phạm: Không.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục Tố tụng: Anh Cư Seo S yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” với chị Giàng Thị H có địa chỉ nơi cư trú cuối cùng: Thôn O, C, huyện S, tỉnh Lào Cai. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện S. Nguyên đơn có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt hợp lệ, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ ba nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, vì vậy Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 227; khoản 1,3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Cư Seo S và chị Giàng Thị H tự nguyện về chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2011, không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Đến ngày 07/3/2013, anh chị mới đăng ký kết hôn với nhau tại Uỷ ban nhân dân C, huyện S, tỉnh Lào Cai. Quá trình chung sống, không biết vì lý do gì mà tháng 12/2015 chị Hồ đã bỏ nhà đi đâu không ai biết, đến nay anh S3 và gia đình không có bất kỳ tin tức gì về chị Hồ nên anh S3 đã yêu cầu Toà án tuyên bố chị Hồ mất tích. Ngày 10/6/2024, Toà án nhân dân huyện S đã ban hành Quyết định sơ thẩm giải quyết việc dân sự v/v “Yêu cầu tuyên bố một người mất tích” số 02/2024/QĐST-DS, tuyên bố chị Giàng Thị H mất tích, quyết định này đã có hiệu lực pháp luật. Nay anh S3 yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Hồ để đảm bảo cuộc sống riêng của anh là có căn cứ, phù hợp với khoản 2 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình. Vì vậy Hội đồng xét xử cần áp dụng khoản 2 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho ly hôn giữa Anh Cư Seo S và chị Giàng Thị H.
[3] Về nuôi con khi ly hôn: Quá trình chung sống, Anh Cư Seo S và chị Giàng Thị H có một người con chung là cháu Cư Văn D, sinh ngày 19/01/2013.
Nay anh S3 yêu cầu Toà án giải quyết cho anh được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu D cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Anh S3 không yêu cầu Toà án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con chung.
Kết quả xác minh tại địa phương cho thấy: Từ khi chị Hồ bỏ đi thì cháu D do anh S3 trực tiếp nuôi dưỡng đến nay; anh S3 đã chăm sóc cháu D đảm bảo đầy đủ, cháu phát triển khoẻ mạnh, bình thường. Anh S3 là lao động tự do, công việc chính là trồng trọt, chăn nuôi thu nhập được 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng)/tháng. Tại địa phương mức nuôi dưỡng cháu D là 1.000.000 đồng (Một triệu đồng)/tháng. Anh S3 hoàn toàn đủ điều kiện nuôi con khi ly hôn. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần áp dụng khoản 1,2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình, giao cháu Cư Văn D, sinh ngày 19/01/2013 cho Anh Cư Seo S trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi cháu đủ 18 tuổi là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định tại khoản 1,3 Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.
[3] Về án phí sơ thẩm: Trong quá trình giải quyết vụ án, anh S3 đã nộp đơn đề nghị Tòa án miễn nộp toàn bộ tiền tạm ứng án phí, án phí hôn nhân gia đình và cung cấp văn bản xác nhận anh S3 là cá nhân thuộc hộ cận nghèo năm 2024. Xét đề nghị của anh S3 là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên cần được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 2 Điều 56; khoản 1,2 Điều 81; khoản 1,3 Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 1,3 Điều 228; Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu phí, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa Anh Cư Seo S và chị Giàng Thị H. Quan hệ hôn nhân của Anh Cư Seo S và chị Giàng Thị H chấm dứt kể từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật.
2. Về nuôi con khi ly hôn: Giao cháu Cư Văn D, sinh ngày 19/01/2013 cho Anh Cư Seo S trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Chị Giàng Thị H không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
3. Về án phí: Anh Cư Seo S được miễn nộp toàn bộ tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo đối với bản án: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
5. Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 16/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 16/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Si Ma Cai - Lào Cai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về