Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 20/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGỌC LẶC, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 20/2022/HNGĐ-ST NGÀY 11/05/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 11 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Ngọc Lặc xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 240/2021/TLST - HNGĐ ngày 20/12/2021 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2021/QĐDS - ST ngày 27/4/2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lê Thị L – Sinh năm 1990 (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

Nơi ĐKNKTT: Làng R, xã NÂ, huyện NL, tỉnh Thanh Hóa.

Nơi cư trú: Làng B, xã PG, huyện NL, tỉnh Thanh Hóa.

Bị đơn: Anh Lường Văn D - Sinh năm 1986 (Có mặt). Nơi cư trú: LR, xã NÂ, huyện NL, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và bản tự khai chị Lê Thị L trình bày: Chị và anh Lường Văn D kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 20/3/2008 tại UBND xã NÂ, huyện NL, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc được khoảng 13 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là vợ chồng không thống nhất cách làm ăn và cư sử trong gia đình. Do mâu thuẫn vợ chồng không dàn xếp được, nên tháng 10/2020 chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ và vợ chồng đã sống ly thân từ đó đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh D theo quy định của pháp luật.

Về con cái: Chị và anh Lường Văn D có 02 con là Lường Thị Hà L - Sinh ngày 28/12/2008 và Lường Tuấn Đ – Sinh ngày 27/11/2015. Kể từ khi vợ chồng sống ly thân anh D là người trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng hai con, vợ chồng ly hôn, chị đề nghị Tòa án giải quyết giao cả hai con cho anh D nuôi dưỡng, chị không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai và tại phiên tòa anh Lường Văn D trình bày: Anh và chị Lê Thị L tự nguyện kết hôn và đăng ký kết hôn cũng như mâu thuẫn vợ chồng như chị L trình bày là đúng. Hiện nay vợ chồng đã sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Nay chị L làm đơn xin ly hôn anh thì anh cũng đồng ý và đề nghị Tòa án căn cứ pháp luật để giải quyết.

Về con cái: Anh và chị L có hai con như chị L trình bày là đúng, kể từ khi vợ chồng sống ly thân, anh là người trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cả hai con, anh đồng ý với đề nghị của chị L về việc đề nghị Tòa án giải quyết giao cả hai con cho anh nuôi dưỡng, chăm sóc. Anh yêu cầu chị L phải cấp dưỡng nuôi con cùng với anh mỗi con là 1.500.000đ/tháng cả hai con là 3.000.000đ/tháng.

Về tài sản: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát phát biểu: Việc tuân theo pháp luật Tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng từ khi thụ lý cho đến thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện việc tuân theo pháp luật là phù hợp. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Xử cho chị Lê Thị L được ly hôn anh Lường Văn D và giao cả hai con là Lường Thị Hà L và Lường Tuấn Đ cho anh Lường Văn D nuôi dưỡng chăm sóc, buộc chị Lê Thị L phải cấp dưỡng nuôi con cùng anh Lường Văn D mỗi con là 1.000.000đ/tháng, hai con là 2.000.000đ/tháng và buộc chị Lê Thị L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định.

[1]. Về hôn nhân: Căn cứ lời trình bày chị Lê Thị L và trích lục kết hôn giữa anh Lường Văn D và chị Lê Thị L, đủ cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh D là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa anh D đều đồng ý ly hôn. Mặt khác chị L và anh D đều thừa nhận hai người đã sống ly thân từ tháng 10/2020 đến nay, không ai quan tâm đến ai, điều đó cho thấy mâu thuẫn vợ chồng đã thực sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị L là phù hợp.

[2]. Về con cái: Căn cứ lời trình bày của chị L, anh D và giấy khai sinh của cháu L và cháu Đ đủ cơ sở xác định chị Lê Thị L và anh Lường Văn D có 02 con là Lường Thị Hà L - Sinh ngày 28/12/2008 và Lường Tuấn Đ – Sinh ngày 27/11/2015. Chị L và anh D đề nghị giao cả hai con cho anh D chăm sóc nuôi dưỡng phù hợp với nguyện vọng của cháu L, nên chấp nhận. Về mức cấp dưỡng anh D yêu cầu chị L cấp dưỡng mỗi con là 1.500.000đ/tháng, chị L không đồng ý cấp dưỡng. Tuy nhiên theo quy định của pháp luật người không nuôi con phải cấp dưỡng nuôi con, nên buộc chị L cấp dưỡng mỗi con 1.000.000đ/tháng là phù hợp với mức thu nhập của lao động phổ thông tại địa phương

[3]. Về tài sản: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát Hội đồng xét xử xét thấy: Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ phù hợp với quy định của pháp luật.

[5]. Về án phí: Chị Lê Thị L phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Các Điều 51; 56; 57; 58; 81; 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147, Điều 227 và khoản 1 Điều 228; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 1 Điều 24 và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Lê Thị L.

* Về hôn nhân: Chị Lê Thị L được ly hôn anh Lường Văn D.

* Về con cái: Giao cả hai con là Lường Thị Hà L - Sinh ngày 28/12/2008 và Lường Tuấn Đ – Sinh ngày 27/11/2015 cho anh Lường Văn D trực tiếp trông nom, chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi thành niên. Buộc chị Lê Thị L phải cấp dưỡng nuôi con cùng với anh Lường Văn D mỗi con là 1.000.000đ/tháng, (Một triệu đồng), hai con là 2.000.000đ/tháng (Hai triệu đồng). Thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 6/2022, cho đến khi cháu Lường Thị Hà L và Lường Tuấn Đ đến tuổi thành niên.

Chị Lê Thị L được quyền thăm nom con không ai được cản trở, ngăn cấm.

* Về án phí: Chị Lê Thị L phải chịu án phí ly hôn 300.000đ và án phí cấp dưỡng nuôi con định kỳ 300.000đ, tổng cộng là 600.000đ, (Sáu trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ, theo biên lai thu tiền số AA/2021/0000020 ngày 20/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa. Chị Lê Thị L còn phải nộp án phí dân sử sở thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

* Về quyền kháng cáo: Anh Lường Văn D được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Lê Thị L được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 20/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:20/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ngọc Lặc - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;