Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung số 07/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH G

BẢN ÁN 07/2022/HNGĐ-ST NGÀY 10/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 10 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh G xét xử sơ thẩm công khai vụ án tranh chấp Hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số: 48/2022/TLST-HNGĐ ngày 08/03/2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 09/2022/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị H, sinh năm 1991. Địa chỉ: Thôn H, xã K, huyện Đ, tỉnh G. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Trương Văn M, sinh năm 1978. Địa chỉ: Thôn H, xã K, huyện Đ, tỉnh G. Vắng mặt lần thứ 2.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, trình bày tại các bản khai, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn trình bày như sau:

Chị là Trần Thị H, sinh năm 1991 (là nguyên đơn) và anh Trương văn M, sinh năm 1978 (là nguyên đơn) là vợ chồng, có đăng ký kết hôn ngày 23/4/2013 tại UBND xã K, huyện Đ, tỉnh G. Trong thời kỳ hôn hôn nhân vợ chồng sống không hạnh phúc, luôn bất đồng quan điểm, không tìm được tiếng nói chung, thường xuyên cãi vã, không còn quan tâm, yêu thương nhau. Do tình cảm vợ chồng đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Trương Văn M để giải thoát cho nhau.

- Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân chị và anh M có 02 con chung là Trương Anh B, sinh ngày 20/2/2014 và Trương Anh Đ, sinh ngày 10/9/2016. Sau khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi 02 con nêu trên và không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về chia tài sản chung và trả nợ chung: Chị không có yêu cầu giải quyết.

* Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn vắng mặt, không có cung cấp tài liệu, chứng cứ gì Hội đồng xét xử để xem xét.

* Quá trình giải quyết vụ án, cháu Trương Anh B, sinh ngày 20/2/2014 là con của nguyên đơn và bị đơn có văn bản trình bày ý kiến như sau:

Thời gian qua con thấy ba mẹ thường xuyên mâu thuẫn, cãi vã với nhau, vì sao ba mẹ mâu thuẫn con không rõ. Con không muốn ba mẹ ly hôn, tuy nhiên nếu ba và mẹ ly hôn thì con có nguyện vọng ở với mẹ, con không muốn ở với ba.

* Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý đến khi xét xử, nghị án đều đúng theo quy định của pháp luật. Đối với nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình giải quyết vụ án; riêng bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng của mình, vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án.

- Về nội dung vụ án:

+ Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

+ Buộc nguyên đơn chịu án phí Hôn nhân và gia đình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Xét thấy, anh Trương văn M, sinh năm 1978 (là bị đơn) có địa chỉ tại Thôn H, xã K, huyện Đ, tỉnh G nên tranh chấp trên được Tòa án nhân dân huyện Đak Đoa thụ lý, giải quyết là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 28, Khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự.

* Về nội dung:

Quá trình giải quyết vụ án bị đơn đều vắng mặt và không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì để Hội đồng xét xử xem xét.

Căn cứ tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ do nguyên đơn cung cấp và trình bày tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận thấy:

[2] Về hôn nhân: Chị Trần Thị H, sinh năm 1991 (là nguyên đơn) và anh Trương văn M, sinh năm 1978(là bị đơn) là vợ chồng, có đăng ký kết hôn ngày 23/4/2013 tại UBND thôn H, xã K, huyện Đ, tỉnh G nên hôn nhân giữa nguyên đơn và bị đơn là hôn nhân hợp pháp.

Theo trình bày của nguyên đơn, thì trong thời kỳ hôn hôn nhân thì vợ chồng (chị H và M) sống không hạnh phúc, luôn bất đồng quan điểm, không tìm được tiếng nói chung, thường xuyên cãi vã, không còn quan tâm, yêu thương nhau vợ chồng luôn bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung, thường xuyên cãi vã, không còn quan tâm, yêu thương nhau. Do tình cảm vợ chồng đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên nguyên đơn yêu cầu được ly hôn với bị đơn để giải thoát cho nhau.

Hội đồng xét xử nhận thấy, quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã xác minh thì hiện nay bị đơn đang đăng ký hộ khẩu và sinh sống tại Thôn H, xã K, huyện Đ, tỉnh G, tuy nhiên Tòa án đã nhiều lần tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật cho bị đơn để làm việc, hòa giải và xét xử nhưng bị đơn đều vắng mặt và bị đơn không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì để Hội đồng xét xem xét. Việc bị đơn vắng mặt suốt quá trình giải quyết vụ án cho thấy bị đơn đã bỏ mặc gia đình, không còn quan tâm, yêu thương, chăm lo hạnh phúc gia đình, nên hôn nhân của nguyên đơn và bị đơn đã mâu thuân trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên nguyên đơn yêu cầu ly hôn với bị đơn là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về nuôi con và cấp dưỡng nuôi con chung:

Xét thấy trong thời kỳ hôn nhân nguyên đơn và bị đơn có 02 con chung là Trương Anh B, sinh ngày 20/2/2014 và Trương Anh Đ, sinh ngày 10/9/2016, sau khi ly hôn nguyên đơn yêu cầu được nuôi 02 con nêu trên và không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng. Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định như sau: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

Hội đồng xét xử nhận thấy, hiện nay cháu Trương Anh B, sinh ngày 20/2/2014 đã trên 07 tuổi, quá trình giải quyết vụ án con Trương Anh B đã có văn bản trình bày ý kiến như sau: “Thời gian qua con thấy ba mẹ thường xuyên mâu thuẫn, cãi vã với nhau, vì sao ba mẹ mâu thuẫn con không rõ. Con không muốn ba mẹ ly hôn, tuy nhiên nếu ba mẹ ly hôn thì con có nguyện vọng ở với mẹ, con không muốn ở với ba”. Do bị đơn vắng mặt, nguyên đơn và bị đơn không thỏa thuận được việc nuôi 02 con chung và con Trương Anh B hiện nay trên 07 tuổi và có nguyện vọng ở với nguyên đơn, nên để đảm bảo quyền lợi mọi mặt của các con nên Hội đồng xét xử quyết định giao cho nguyên đơn được nuôi 02 con chung là Trương Anh B, sinh ngày 20/2/2014 và Trương Anh Đ, sinh ngày 10/9/2016 cho đến khi 02 con đã thành niên hoặc đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Ngoài ra, khoản 2 Điều 82 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định như sau: “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con”. Do nguyên đơn không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi 02 con chung nêu trên nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Nguyên đơn không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[5] Về án phí:

Nguyên đơn chịu án phí yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật.

[6] Từ những nhận định, phân tích nêu trên nên nhận thấy những nhận định và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 91, Điều 92, Điều 93, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 235, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 51, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị H. Chị Trần Thị H được ly hôn với anh Trương Văn M.

2. Về nuôi con và cấp dưỡng nuôi con chung:

Giao cho chị Trần Thị H được quyền nuôi 02 con chung là Trương Anh B, sinh ngày 20/2/2014 và Trương Anh Đ, sinh ngày 10/9/2016 cho đến khi 2 con đã thành niên hoặc đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Anh Trương văn Mkhông có nghĩa vụ cấp dưỡng để chị Trần Thị H nuôi 02 con chung nêu trên.

Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về án phí:

Buộc chị Trần Thị H phải chịu án phí sơ thẩm về yêu cầu ly hôn là 300.000 đồng, nhưng được khấu trừ số tiền số tiền tạm ứng án phí mà chị Trần Thị H đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng phí, lệ phí Tòa án số 0009495 ngày 04 tháng 03 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh G.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh G xét xử phúc thẩm. Riêng bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

124
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung số 07/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:07/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đăk Đoa - Gia Lai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;