Bản án về ly hôn số 79/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 79/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/09/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 21 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 335/2022/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 5 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 91/2022/QĐXX-ST ngày 25 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên toà số 142/2022/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Phạm Thị G, sinh năm: 1990; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 29A đường P, phường H, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; nơi tạm trú: 22 đường T, phường H, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. (Có mặt).

Bị đơn: Ông Thái Nam C, sinh năm: 1986; nơi cư trú: Số 29A đường P, phường H, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 12/5/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Phạm Thị G trình bày thì: Bà G và ông Thái Nam C kết hôn năm 2016, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường H, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Hôn nhân do hai bên tự nguyện, có tổ chức lễ cưới. Sau khi kết hôn vợ chồng sống cùng gia đình bố mẹ ông C tại địa chỉ số 29A đường P, phường H, thành phố. Cuộc sống vợ chồng hoà thuận, hạnh phúc được đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông C thường xuyên cờ bạc, nợ nần, không có trách nhiệm với gia đình, không cùng chăm sóc nuôi dạy con cái. Đến năm 2020, thì bà G đưa con gái ra ngoài ở riêng và vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay, vợ chồng không còn quan tâm, trách nhiệm gì đến nhau nữa. Nay bà G xác định vợ chồng không thể khắc phục được mâu thuẫn, không thể hàn gắn nên yêu cầu được ly hôn với ông C.

- Về con chung: Bà G xác định vợ chồng có 01 con chung là cháu Thái Phương C, sinh ngày 03/9/2017; hiện con đang ở với bà G. Ly hôn, bà G yêu cầu được nuôi con và yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con số tiền 2.000.000 đồng/tháng.

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà G xác định không có.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông C đã được Toà án thông báo và tống đạt hợp lệ nhưng ông C không đến Toà và cũng không cung cấp văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của bà G nên Toà án không thu thập được ý kiến cũng như lời khai của ông C và không tiến hành hoà giải được.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn bà G xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không còn khả năng hàn gắn nên vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn với ông C. Bà G yêu cầu được nuôi con. Bà G xác định mình đủ khả năng nuôi con nên không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng phát biểu quan điểm tại phiên tòa:

Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý cũng như giải quyết vụ án, thì Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình được quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên toà, bị đơn ông C đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn là bảo đảm theo quy định tại điểm b khoản 2 điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Xét mâu thuẫn giữa bà G và ông C là có xảy ra trong thực tế và đã trầm trọng. Vợ chồng sống đã sống ly thân từ năm 2020 cho đến nay, không còn quan tâm, trách nhiệm gì với nhau, tình cảm vợ chồng không còn, không còn khả năng hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà G, cho bà G và ông C ly hôn; giao con chung là cháu Thái Phương C, sinh ngày 03/9/2017 cho bà G trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi con đủ tuổi thành niên; Tại phiên toà, bà G xác định mình đủ khả năng nuôi con,không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập. Về tài sản chung và nợ chung, bà G xác định không có nên không đề cập.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Toà án đã tống đạt hợp lệ lần thứ hai đối với bị đơn ông Thái Nam C để tham gia phiên toà sơ thẩm, tuy nhiên ông C vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, quyết định vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy bà Phạm Thị G và ông Thái Nam C kết hôn năm 2016 trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn và được Uỷ ban nhân dân phường H, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng cấp giấy chứng nhận kết hôn nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Vợ chồng chung sống hoà thuận hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân theo bà G trình bày là do ông C thường xuyên cờ bạc, nợ nần, không có trách nhiệm với gia đình và chăm sóc nuôi dạy con cái. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2020 cho đến nay, không còn quan tâm, trách nhiệm gì đến nhau nữa. Nay bà G xác định vợ chồng không thể khắc phục được mâu thuẫn, không còn khả năng hàn gắn được nữa nên yêu cầu được ly hôn với ông C. Bị đơn ông C đã được Tòa án thông báo nhiều lần nhưng vẫn không đến Tòa để hòa giải, tại phiên tòa hôm nay ông C vẫn vắng mặt không có lý do là thể hiện sự bỏ mặc, không mong muốn vợ chồng hàn gắn. Xét thấy mâu thuẫn giữa bà G và ông C là có xảy ra trong thực tế và đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà G yêu cầu ly hôn ông C là có cơ sở và đề nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ và phù hợp. Do đó, căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà G, cho bà G và ông C ly hôn.

[3] Về con chung: Bà G và ông C có 01 con chung là cháu Thái Phương C, sinh ngày 03/9/2017. Ly hôn, bà G có yêu cầu được nuôi con. Xét thấy, hiện cháu C đang còn nhỏ, cần sự chăm sóc của mẹ nhiều hơn và đã sống với mẹ ổn định nên để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho con, căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, giao con chung là cháu Thái Phương C cho bà G trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con đủ tuổi thành niên.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Tại phiên toà, bà G xác định đủ khả năng nuôi con, không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà G xác định không có nên không đề cập. [6] Về án phí: Bà G phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 điều 28, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Phạm Thị G. Cho bà Phạm Thị G và ông Thái Nam C ly hôn.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Thái Phương C, sinh ngày 03/9/2017 cho bà Phạm Thị G trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ tuổi thành niên.

Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, nghĩa vụ, quyền của cha mẹ trực tiếp, không trực tiếp nuôi con, thay đổi người trực tiếp nuôi con và thay đổi cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

3. Về án phí: Bà Phạm Thị G phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm (được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí bà G đã nộp theo biên lai thu số 0001856 ngày 26 tháng 5 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn vắng mặt tại phiên toà được quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.

5. Trường hợp quyết định được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

72
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 79/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:79/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;