TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY BẮC, TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 75/2024/HNGĐ-ST NGÀY 29/07/2024 VỀ LY HÔN
Ngày 29 tháng 7 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc công khai xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 49/2024/TLST-HN ngày 01 tháng 3 năm 2024 về việc “Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 148/2024/QĐST – HNGĐ ngày 04 tháng 7 năm 2024; giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Trọng N, sinh năm 1991 Địa chỉ: ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ liên hệ: A đường số A khu dân cư S, khu phố M, phường A, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
2. Bị đơn: Chị Trần Thị T, sinh năm 1994 Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre.
Anh N có yêu cầu giải quyết vắng mặt; chị T vắng mặt không lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Nguyễn Trọng N trình bày:
Năm 2017, anh và chị T tự nguyện đăng ký kết hôn được UBND xã T, huyện B cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 75/2017. Sau một thời gian chung sống, anh và chị T mâu thuẫn và bất đồng quan điểm trong cách sống, thường xuyên cự cãi. Anh và chị T đã cố gắng nhằm duy trì mối quan hệ vợ chồng nhưng không được, mâu thuẫn trầm trọng hơn, không thể sống chung và hòa hợp trở lại. Anh thấy bất đồng về quan điểm ngày càng gay gắt, cuộc sống vợ chồng bất hòa, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, hôn nhân không còn hạnh phúc, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích và kết quả hôn nhân không đạt được, nếu tiếp tục sẽ gây thiệt hại cho cả hai bên.
Nay anh thấy tình cảm vợ chồng không còn nên xin ly hôn với chị T. Anh không yêu cầu chị T cấp dưỡng giữa vợ và chồng cho anh, anh cũng không cấp dưỡng cho chị T.
Về con chung: trong thơi gian sống chung vơ chồng không co con chung. Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.
Về nợ chung; Không có.
Bị đơn chị Trần Thị T vắng mặt nên không có lời trình bày.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào kết quả thẩm tra tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của các đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Quan hệ pháp luật: Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và nội dung vụ án cần giải quyết, Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật tranh chấp của vụ án là “Ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Thẩm quyền giải quyết: Theo xác nhận của Công an xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre xác nhận chị Trần Thị T hiện có đăng ký thường trú tại xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết theo trình tự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc.
Anh Nguyễn Trọng N có yêu cầu xin xét xử vắng mặt nên căn cứ vào khoản 1 điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh N là phù hợp.
Chị Trần Thị T vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị T là phù hợp.
[3] Về hôn nhân: Anh Nguyễn Trọng N và chị Trần Thị T kết hôn vào năm 2017, trên cơ sở quen biết và có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện B vào ngày 29/11/2017 nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Xét yêu cầu xin ly hôn của anh N, anh N cho rằng sau một thời gian chung sống, anh và chị T mâu thuẫn và bất đồng quan điểm trong cách sống, thường xuyên cự cãi. Anh và chị T đã cố gắng nhằm duy trì mối quan hệ vợ chồng nhưng không được, mâu thuẫn trầm trọng hơn, không thể sống chung và hòa hợp trở lại. Anh thấy bất đồng về quan điểm ngày càng gay gắt, cuộc sống vợ chồng bất hòa, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, hôn nhân không còn hạnh phúc, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích và kết quả hôn nhân không đạt được, nếu tiếp tục sẽ gây thiệt hại cho cả hai bên. Nay anh thấy tình cảm vợ chồng không còn nên xin ly hôn với chị T. Trong quá trình giải quyết vụ án anh N vẫn giữ yêu cầu xin ly hôn với chị T. Chị T đã được tòa án triệu tập hợp lệ đến để tham gia hòa giải, xét xử nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, cũng không có ý kiến gì về việc anh N xin ly hôn, chứng tỏ chị T không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng. Anh chị là vợ chồng nhưng không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ vợ chồng, thấy rằng mâu thuẫn giữa anh N và chị T đã trầm trọng, muïc ñích hoân nhaân giöõa hai anh chò khoâng ñaït ñöôïc ñôøi soáng chung khoâng theå keùo daøi neân chaáp nhaän yeâu caàu của anh N là phù hợp.
[4] Về con chung: Anh N trình bày không có nên không xem xét.
[5] Về tài sản chung: Anh N trình bày tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
[6] Về nợ chung: Anh N trình bày không có nên không xem xét.
[7] Án phí ly hôn: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên anh N phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo qui định là 300.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ các Điều 51, 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014;
Căn cứ Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của anh Nguyễn Trọng N.
Anh Nguyễn Trọng N được ly hôn với chị Trần Thị T.
2. Về con chung: Anh N trình bày không có nên không xem xét.
3. Về tài sản chung: Anh N trình bày không có, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
4. Về nợ chung: Anh N trình bày không có nên không xem xét.
5. Án phí: Anh Nguyễn Trọng N phải nộp án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0003135 ngày 01 tháng 3 năm 2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Mỏ Cày Bắc.
Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm.
Bản án về ly hôn số 75/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 75/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Bắc - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/07/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về