TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ JÚT, TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 28/2024/HNGĐ-ST NGÀY 20/09/2024 VỀ LY HÔN
Ngày 20 tháng 9 năm 2024, tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Cư Jút, tỉnh Đăk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 159/2024/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 7 năm 2024 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2024/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 8 năm 2024; Quyết định hoãn Phên tòa số 23/2024/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 8 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Cư Jút, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1975 - Có mặt.
Địa chỉ: Thôn 05, xã Tr, huyện C, tỉnh Đắk Nông.
Bị đơn: Anh Chu Văn L, sinh năm 1971 - Vắng mặt.
Địa chỉ: Thôn 05, xã Tr, huyện C, tỉnh Đắk Nông.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, biên bản lấy lời khai và tại Phên tòa nguyên đơn trình bày: Chị Nguyễn Thị Th và anh Chu Văn L chung sống với nhau từ năm 1995 nhưng đến năm 2004 mới đi đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông. Việc chung sống và kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc. Vợ chồng anh chị sống hạnh phúc với nhau được một thời gian thì bắt đầu phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính cách và quan điểm sống của hai người không hợp nhau, anh L không quan tâm chăm sóc chị và đánh đập chị. Vì con chung chị Th nhiều lần cố gắng hàn gắn tình cảm vợ chồng.
1 Nay các con chung đã trưởng thành, vợ chồng đã sống ly thân nhiều năm nên tình cảm vợ chồng không còn. Vì vậy, chị Th đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Chu Văn L.
Quá trình chung sống chị Nguyễn Thị Th và anh Chu Văn L có 03 con chung là Chu Thị L2, sinh năm 1995, Chu Tiểu L1, sinh năm 1998 và Chu Hồng Ph, sinh năm 2000. Hiện nay các con chung đã trên 18 tuổi nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung, nợ chung: Chị Th không yêu cầu Tòa án giải quyết. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng đối với bị đơn. Tuy nhiên bị đơn không có mặt theo giấy triệu tập, thông báo về Phên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, và hòa giải. Vì vậy, Tòa án không tiến hành lấy lời khai được với bị đơn, không tiến hành hòa giải được giữa các đương sự với nhau. Nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Jút có quan điểm về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, sự tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng và nội dung vụ án:
- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán từ khi thụ lý vụ án và của Hội đồng xét xử tại Phên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự.
Việc chấp hành pháp luật của đương sự: Nguyên đơn đã nghiêm túc thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại Phên tòa lần thứ nhất và lần thứ hai không lý do, Tòa án giải quyết và xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định của pháp luật.
- Về nội dung vụ án: Cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Th được ly hôn với anh Chu Văn L. Về con chung; Các con đã trưởng thành nên không đề cập giải quyết.
Về tài sản chung và nợ chung: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về án phí: Nguyên đơn phải nộp toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại Phên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại Phên tòa, ý kiến của đương sự, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền và quan hệ pháp luật: Thẩm quyền và quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Nguyễn Thị Th yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Cư Jút giải quyết ly hôn với anh Chu Văn L, bị đơn có nơi cư trú tại huyện Cư Jút nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cư Jút theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng Dân sự. Quan hệ pháp luật là “Ly hôn”.
[2] Về chấp hành pháp luật của đương sự: Quá trình giải quyết vụ án Toà án đã tống đạt hợp lệ đúng theo quy định tại Điều 173 Bộ luật Tố tụng dân sự để thông báo thụ lý vụ án, triệu tập đương sự và các văn bản tố tụng khác cho đương sự. Nguyên đơn chấp hành tốt. Bị đơn không chấp hành tốt, mặc dù đã được Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập, thông báo về Phên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng bị đơn vắng mặt nên tại Phên tòa lần thứ nhất. HĐXX đã hoãn Phên tòa lần thứ nhất theo quy định tại khoản 1 Điều 227 của BLTTDS. Quyết định hoãn Phên toà có thông báo thời gian mở lại Phên toà đã tống đạt hợp lệ cho các đương sự nhưng bị đơn vẫn vắng mặt tại Phên toà lần thứ hai. Việc bị đơn không chấp hành pháp luật được coi tự ý từ bỏ quyền được tham gia tố tụng, quyền tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình quy định tại Điều 6, Điều 72 của BLTTDS. Vì vậy, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn theo quy định.
[3] Về nội dung:
[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Th và anh Chu Văn L chung sống với nhau từ năm 1995 nhưng đến năm 2004 mới đi đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện Đ, việc kết hôn trên cơ sở tự nguyện. Đây là hôn nhân hợp pháp, kết hôn đúng theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình. Sau khi kết hôn, cuộc sống vợ chồng của chị Th và anh L không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được.
Trong quan hệ hôn nhân phải dựa trên tình cảm, tình yêu thương, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện công việc trong gia đình. Tuy nhiên, chị Th và anh L đã sống ly thân, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu ly hôn của Th là có căn cứ nên cần chấp nhận.
[3.2] Về con chung: Các con đã trưởng thành nên không đề cập giải quyết. [3.3] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Th không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét giải quyết.
[4] Xét quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Jút kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự và phát biểu quan điểm giải quyết là phù hợp với quy định của pháp luật.
[5] Về án phí: Án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng, nguyên đơn phải nộp toàn bộ án phí theo quy định của pháp luật.
[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điều 143; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Áp dụng Điều 51; Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý, sử dụng án phí, lệ phí Toà án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Th.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Th được ly hôn với anh Chu Văn L.
2. Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không đề cập giải quyết.
3. Về án phí: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Th phải nộp toàn bộ án phí ly hôn là 300.000 đồng, được trừ vào số tiền 300.000 đồng nguyên đơn đã nộp tạm ứng án phí tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông theo biên L số 0005142 ngày 05/07/2024.
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.
Bản án về ly hôn số 28/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 28/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cư Jút - Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 20/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về