Bản án về ly hôn số 494/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 494/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/04/2021 VỀ LY HÔN 

Trong ngày 28 tháng 4 năm 2021, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 1239/2020/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 11 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 81/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 94/2021/QĐST-HNGĐ ngày 02 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Nguyễn Thị H, sinh năm 1981 – Có đơn xin vắng mặt.

Địa chỉ: E11/406 ấp E, xã Phong Ph, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Ông Trần Quang Anh Th, sinh năm 1978 – Vắng mặt.

Địa chỉ: E11/406 ấp E, xã Phong Ph, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong Đơn khởi kiện (về việc ly hôn) đề ngày 07/11/2020, bản tự khai đề ngày 02/12/2020, Biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ ngày 25/12/2020 và Biên bản về việc không tiến hành hòa giải được ngày 25/12/2020, nguyên đơn bà Nguyễn Thị H trình bày:

Bà Nguyễn Thị H và ông Trần Quang Anh Th chung sống với nhau từ năm 2008, có tổ chức đám cưới, do tự tìm hiểu và có đăng ký kết hôn vào ngày 18/11/2008 tại Ủy ban nhân dân xã Phong Ph, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận kết hôn số 157, quyển số 2/2008. Thời gian đầu ông bà chung sống hạnh phúc, không có gì xảy ra. Đến năm 2013, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, tính tình không còn hòa hợp, nguyên nhân chủ yếu là ông Th thường cờ bạc, rượu chè, không phụ giúp bà H nuôi con; cả hai còn mâu thuẫn trong vấn đề giáo dục con cái. Hạnh phúc vợ chồng không còn dù bà H đã nhiều lần khuyên bảo và cho ông Th cơ hội thay đổi nhưng ông Th vẫn không thay đổi. Bà H và ông Th đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được, nay bà Nguyễn Thị H yêu cầu được ly hôn với ông Trần Quang Anh Th.

Về con chung: Bà Nguyễn Thị H và ông Trần Quang Anh Th chung sống có 02 con chung tên là Trần Quang M (nam), sinh ngày 15/02/2012, Trần Quang Diễm P (nữ), sinh ngày 29/02/2016. Khi ly hôn, bà Nguyễn Thị H yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông Trần Quang Anh Th cấp dưỡng nuôi con do bà H có khả năng tự nuôi con. Bà H tự kinh doanh, thu nhập khoảng 50.000.000đồng/tháng.

Về tài sản chung: Bà H xác định vợ chồng bà không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Bà H xác nhận không có nợ ai, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Trần Quang Anh Th vắng mặt trong toàn bộ quá trình Tòa án giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay mà không có bất ký văn bản nào thể hiện ý kiến hay yêu cầu của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa đã phát biểu ý kiến như sau:

+ Về Tố tụng: Trong suốt quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của Bà Nguyễn Thị H đối với ông Trần Quang Anh Th.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Bà Nguyễn Thị H khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Trần Quang Anh Th. Tại Phiếu trả lời xác minh ngày 08/3/2021 của Công an xã Phong Ph, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh cung cấp như sau: “Đương sự Trần Quang Anh Th SN: 1978 có KHTT và thực tế cư ngụ tại địa chỉ: E11/406 ấp E, xã Phong Ph, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 9/2018 đến nay”. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự:

+ Ông Trần Quang Anh Th đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do nên căn cứ theo quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông Trần Quang Anh Th.

+ Bà Nguyễn Thị H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên căn cứ theo quy định tại Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà Nguyễn Thị H.

[3] Về các yêu cầu của các đương sự, Hội đồng xét xử xét thấy như sau:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ theo Giấy chứng nhận kết hôn số 157, quyển số 2/2008 do Ủy ban nhân dân xã Phong Ph, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 18/11/2008 thì có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị H và ông Trần Quang Anh Th là hôn nhân hợp pháp được quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Căn cứ vào lời trình bày của nguyên đơn bà Nguyễn Thị H xác định: Bà H và ông Trần Quang Anh Th chung sống với nhau từ năm 2008, có tổ chức đám cưới, do tự tìm hiểu và có đăng ký kết hôn vào ngày 18/11/2008 tại Ủy ban nhân dân xã Phong Ph, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận kết hôn số 157, quyển số 2/2008. Thời gian đầu ông bà chung sống hạnh phúc, không có gì xảy ra. Đến năm 2013, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, tính tình không còn hòa hợp, nguyên nhân chủ yếu là ông Th thường cờ bạc, rượu chè, không phụ giúp bà H nuôi con; cả hai còn mâu thuẫn trong vấn đề giáo dục con cái. Hạnh phúc vợ chồng không còn dù bà H đã nhiều lần khuyên bảo và cho ông Th cơ hội thay đổi nhưng ông Th vẫn không thay đổi. Bà H và ông Th đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được, nay bà Nguyễn Thị H yêu cầu được ly hôn với ông Trần Quang Anh Th.

Hiện nay, bà Nguyễn Thị H và ông Trần Quang Anh Th mỗi người có cuộc sống riêng của mình không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, cả hai đã ly thân hơn 03 năm nay. Mục đích hôn nhân giữa bà H và ông Th đã không còn, bà H không muốn chung sống với ông Th nữa.

Căn cứ vào Công văn số 1754/UBND ngày 15/12/2020 của Ủy ban nhân dân xã Phong Ph, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh về việc trả lời yêu cầu xác minh của Tòa án nhân dân huyên Bình Chánh về tình trạng hôn nhân và gia đình của bà Nguyễn Thị H và ông Trần Quang Anh Th thì: “Trong qua trình chung sống giữa bà Nguyễn Thị H và ông Trần Quang Anh Th, không rõ có xảy ra mâu thuẫn gì, nguyên nhân, mức độ mâu thuẫn như thế nào, còn chung sống với nhau hay không, có bạo hành gia đình không…”.

Ông Trần Quang Anh Th dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản thể hiện yêu cầu cầu của nguyên đơn gồm: Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa và Giấy triệu tập đương sự nhiều lần nhưng vẫn không đến Tòa để giải quyết vụ án, cũng không có bất kỳ văn bản nào thể hiện ý kiến hay yêu cầu của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Mặt khác, ông Trần Quang Anh Th cũng không thể hiện thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng với bà Nguyễn Thị H. Như vậy, ông Trần Quang Anh Th đã tự tước bỏ quyền được chứng minh của mình, nên ông Trần Quang Anh Th phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được theo quy định tại Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự.

Do đó, Hội đồng xét xử xét nhận thấy việc bà Nguyễn Thị H yêu cầu ly hôn với ông Trần Quang Anh Th là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân gia đình. Từ các nhận định trên và xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị H đối với ông Trần Quang Anh Th.

[3.2] Về con chung:

Căn cứ lời khai của bà Nguyễn Thị H thì: Quá trình chung sống, bà Nguyễn Thị H và ông Trần Quang Anh Th có 02 con chung tên là Trần Quang M (nam), sinh ngày 15/02/2012, Trần Quang Diễm P (nữ), sinh ngày 29/02/2016. Khi ly hôn, bà Nguyễn Thị H yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung vì các trẻ đã sống cùng với bà Nguyễn Thị H từ nhỏ, kể cả trong thời gian bà Nguyễn Thị H và ông Trần Quang Anh Th sống ly thân.

Mặt khác, căn cứ Biên bản ghi nhận ý kiến trẻ ngày 25/12/2020 thì trẻ Trần Quang M (nam), sinh ngày 15/02/2012 có nguyện vọng được sống chung với mẹ là bà Nguyễn Thị H nếu cha mẹ ly hôn. Đối với trẻ Trần Quang Diễm P (nữ), sinh ngày 29/02/2016, theo lời trình bày của bà H thì trẻ P sống với bà H từ nhỏ, bà H hoàn toàn có khả năng lo cho trẻ Phương với thu nhập từ kinh doanh là khoảng 50.000.000đồng/tháng.

Tại phiên tòa ông Trần Quang Anh Th vắng mặt, không có bất kỳ văn bản nào trình bày nguyện vọng về con chung khi ly hôn.

Xét thấy nguyện vọng của bà Nguyễn Thị H về con chung là phù hợp và cũng thuận lợi nhất cho hai trẻ vì bà Nguyễn Thị H là mẹ lại gần gũi và chăm sóc các con từ nhỏ nên bà Nguyễn Thị H có đầy đủ điều kiện chăm sóc con chung tốt hơn ông Trần Quang Anh Th.

Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị H về con chung: Giao trẻ Trần Quang M (nam), sinh ngày 15/02/2012, Trần Quang Diễm P (nữ), sinh ngày 29/02/2016 cho bà Nguyễn Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Ghi nhận sự tự nguyện của bà Nguyễn Thị H về việc không yêu cầu ông Trần Quang Anh Th cấp dưỡng nuôi con do bà H có khả năng.

[3.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Thị H xác định bà Nguyễn Thị H và ông Trần Quang Anh Th chung sống không có tài sản chung, không nợ ai.

Ông Trần Quang Anh Th vắng mặt trong toàn bộ quá trình Tòa án giải quyết vụ án và tại Tòa hôm nay, không có văn bản thể hiện ý kiến của mình về vấn đề tài sản chung và nợ chung giữ bà Nguyễn Thị H và ông Trần Quang Anh Th.

Do đó, Hội đồng xét xử không xét đến vấn đề tài sản chung và nợ chung giữa bà Nguyễn Thị H và ông Trần Quang Anh Th. Nếu sau này các bên đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

[4] Về án phí: Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án thì bà Nguyễn Thị H phải chịu án phí sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 91, khoản 4 Điều 147; Điều 227, Điều 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 và Điều 116 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị H đối với ông Trần Quang Anh Th.

Quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị H và ông Trần Quang Anh Th chấm dứt. Giấy chứng nhận kết hôn số 157, quyển số 2/2008 do Ủy ban nhân dân xã Phong Ph, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 18/11/2008 không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung:

Giao con chung tên là Trần Quang M (nam), sinh ngày 15/02/2012, Trần Quang Diễm P (nữ), sinh ngày 29/02/2016 cho bà Nguyễn Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với ông Trần Quang Anh Th do bà Nguyễn Thị H có khả năng và không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con mà lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, trong trường hợp có yêu cầu được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Bà Nguyễn Thị H xác định bà Nguyễn Thị H và ông Trần Quang Anh Th chung sống không có tài sản chung. Do đó, Hội đồng xét xử không xét đến vấn đề tài sản chung giữa bà Nguyễn Thị H và ông Trần Quang Anh Th. Nếu sau này các bên đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

4. Về nợ chung: Bà Nguyễn Thị H xác định bà Nguyễn Thị H và ông Trần Quang Anh Th chung sống không nợ ai. Do đó, Hội đồng xét xử không xét đến vấn đề nợ chung giữa bà Nguyễn Thị H và ông Trần Quang Anh Th. Nếu sau này các bên đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

5. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0080475 ngày 19/11/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Nguyễn Thị H đã nộp đủ án phí.

6. Về quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị H và ông Trần Quang Anh Th có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 494/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:494/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;