TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ YÊN BÁI -TỈNH YÊN BÁI
BẢN ÁN 41/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/08/2021 VỀ LY HÔN
Ngày 18 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Yên Bái xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 127/2021/TLST- HNGĐ ngày 27-5-2021 về tranh chấp: Ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 14-7-2021; Thông báo về việc mở lại phiên tòa số: 43/2021/TBXX ngày 03-8-2021, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị N, sinh năm 1947 Địa chỉ: Tổ 9, phường M, thành phố Y, tỉnh Yên Bái.
1. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1942 Địa chỉ: Tổ 9, phường M, thành phố Y, tỉnh Yên Bái.
Các đương sự đều vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 27-5-2021, trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Trần Thị N trình bày:
Bà và ông Nguyễn Văn K tổ chức đám cưới theo phong tục truyền thống và chung sống với nhau từ năm 1968 nhưng không có đăng ký kết hôn. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 4-2021 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyễn nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, không có tiếng nói chung. Ông K hay làm đơn đi tố cáo, khiếu kiện nhiều nơi, bà và các con không đồng tình nên đã khuyên ngăn nhiều lần nhưng ông K không thay đổi. Bà xác định tình cảm vợ chồng đã hết, bà đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn ông K.
Về con chung: Bà N xác nhận bà và ông K có ba con chung là Nguyễn Văn M, sinh năm 1976; Nguyễn Thị Thúy H, sinh năm 1981 và Nguyễn Hữu H1, sinh năm 1984. Hiện các con điều đã trưởng thành nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết Về chia tài sản chung, nợ chung : Bà N không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản tự khai và tài liệu có trong hồ sơ, bị đơn ông Nguyễn Văn K trình bày:
Ông và bà Nguyễn Thị N lấy nhau từ năm 1968. Từ khi lấy nhau, ông chưa từng có hành vi dùng vũ lực đối với bà N hay làm điều gì để bà N phải khó xử trong cuộc sống. Nay bà N yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn, ông đồng ý ly hôn theo nguyện vọng của bà N.
Về con chung: Ông K xác nhận vợ chồng có ba con chung là Nguyễn Văn M, sinh năm 1976; Nguyễn Thị Thúy H, sinh năm 1981 và Nguyễn Hữu H1, sinh năm 1984. Hiện các con điều đã trưởng thành nên ông không yêu cầu gì.
Về chia tài sản chung, nợ chung: Ông K không yêu cầu Tòa án giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Đây là vụ án về “Ly hôn”. Ông K có nơi cư trú tại tổ 9, phường Minh Tân, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái. Căn cứ khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái.
Nguyên đơn bà Trần Thị N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn là ông Nguyễn Văn K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa. Căn cứ khoản 2 Điều 227; khoản 1 khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
[2] Về hôn nhân: Bà Trần Thị N và ông Nguyễn Văn K làm đám cưới và chung sống với nhau từ năm 1968 nhưng không đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, theo quy định của nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09-6-2020 của Quốc Hội thì quan hệ hôn nhân của bà N và ông K được công nhận là hôn nhân hợp pháp từ thời điểm chung sống. Theo bà N, sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 4-2021 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, ông K hay đi khiếu kiện nhiều nơi làm ảnh hưởng đến bà và các con. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hòa giải nhưng không có kết quả. Ông K cho rằng, ông chưa làm gì để bà N phải khó xử trong cuộc sống. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập nhiều lần nhưng ông K đều vắng mặt và có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải, thể hiện ông K không có thiện chí hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Từ đó có căn cứ cho thấy, mâu thuẫn vợ chồng của bà N và ông K đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của bà N là có căn cứ, cần chấp nhận.
[3] Về con chung: Bà N và ông K có ba con chung là Nguyễn Văn M, sinh năm 1976; Nguyễn Thị Thúy H, sinh năm 1981 và Nguyễn Hữu H1, sinh năm 1984. Các con điều đã trưởng thành nên bà N, ông K không yêu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Về chia tài sản chung, nợ chung: Bà N và ông K đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về án phí: Bà Nguyện là người cao tuổi và có đề nghị được miễn nộp tiền án phí thuộc trường hợp quy định điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội nên được miễn nộp tiền án phí.
[6] Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 238; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự;
Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình;
Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội 1. Về hôn nhân: Bà Trần Thị N được ly hôn ông Nguyễn Văn K.
2. Về án phí: Bà Trần Thị N được miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về ly hôn số 41/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 41/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Yên Bái - Yên Bái |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 18/08/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về