Bản án về ly hôn số 196/2020/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 196/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/08/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 28 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỹ Đức xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 97/2020/TLST- HNGĐ ngày 05 tháng 5 năm 2020 về tranh chấp Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2020/QĐXX-ST ngày 23 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị T, sinh năm 1979.

- Bị đơn: Anh Vũ Văn N, sinh năm 1969.

Đều đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm 7, thôn H, xã L, huyện Mỹ Đức, TP. Hà Nội.

(Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án chị Phạm Thị T trình bày:

Năm 2002 chị T có tìm hiểu và tự nguyện kết hôn Với anh Vũ Văn N, vợ chồng có đăng ký kết hôn tại UBND xã Lê Thanh ngày 30/8/2002. Trong thời gian vợ chồng chung sống đã xảy ra quá nhiều mâu thuẫn, anh N thường xuyên rượu chè, cờ bạc và đánh đập chị T, cuộc sống cứ diễn ra trong một thời gian dài. Do không thể chịu đựng thêm cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc chị đề nghị Tòa án nhân dân huyện Mỹ Đức giải quyết cho chị được ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung: Cháu Vũ Ngọc Hà, sinh ngày 01/6/2003 và cháu Vũ Văn Bình, sinh ngày 22/8/2005. Hai cháu đã lớn nên chị cho quyền hai con lựa chọn.

Về tài sản, nợ chung: Chị không yêu cầu tòa án giải quyết.

Về phí bị đơn: Trong suốt quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã nhiều lần triệu tập lên làm việc nhưng anh N đều vắng mặt. Toà án tiến hành xác minh, Công an xã Lê Thanh cung cấp anh N có hộ khẩu thường trú tại địa phương, chưa cắt khẩu, anh đi đâu làm gì không khai báo nên chính quyền địa phương không nắm được. Tòa án có làm việc với ông Vũ Văn Tuệ là anh trai và ở cùng địa chỉ của anh N, ông Tuệ cho biết: Hiện anh N đi làm ăn xa nhà, khi nhà có việc thì anh vẫn về, còn địa chỉ cụ thể như thế nào, ở đâu là gì anh N thay đổi liên tục nên gia đình không biết.

Các cháu Vũ Ngọc Hà và Vũ Văn Bình trình bày thường xuyên liên hệ với anh N qua điện thoại. Nếu bố mẹ ly hôn thì có nguyện vọng ở với mẹ.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn chị Phạm Thị T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện như đã trình bày tại đơn khởi, bản tự khai và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án: Chị T xin được ly hôn anh N, về con chung chị xin nuôi hai con chung và không yêu cầu cấp dưỡng, về tài sản, nợ chung: Chị không yêu cầu tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Vũ Văn N vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát:

Việc chấp hành theo quy định pháp luật của Thẩm phán: Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án đã làm đúng qui trình tố tụng, không có vi phạm gì, đã xác định đúng tư cách của đương sự, giải quyết đúng thời hạn của vụ án.

Về thời hạn chấp hành theo quy định pháp luật của HĐXX: Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm.

Việc chấp hành theo quy định pháp luật của các đương sự, trong quá trình giải quyết vụ án: Nguyên đơn: Chấp hành đúng quy định tố tụng dân sự, bị đơn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án tòa án đã tống đạt văn đúng quy định của pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn, giao con chung cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu tòa án giải quyết nên không xem xét.Về án phí: chị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo qui định pháp luật;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

1.1. Về thẩm quyền giải quyết: Chị Phạm Thị T có đơn yêu cầu giải quyết ly hôn đối với anh Vũ Văn N. Đây là vụ án tranh chấp ly hôn quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn là ông Vũ Văn N có hộ khẩu thường trú: Đội 7, thôn Áng Hạ, xã Lê Thanh, huyện Mỹ Đức, TP. Hà Nội, theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án nhân dân quận Mỹ Đức, thụ lý giải quyết đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

1.2 Về trình tự tố tụng: Đối với bị đơn anh Vũ Văn N vắng mặt tại phiên toà lần thứ hai; Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa đối với anh N. Tại phiên tòa hôm nay, anh N vắng mặt không có lý do; căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự, Toà xét xử vắng mặt anh N là đúng quy định của pháp luật.

[2]Về nội dung vụ án:

2.1 Xét quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị T và anh Vũ Văn N tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn ngày 30/8/2002 tại UBND xã Lê Thanh, huyện Mỹ Đức, TP. Hà Nội. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Về yêu cầu ly hôn: Theo như chị T trình bày cuộc sống chung vợ chồng không có hạnh phúc nguyên nhân do anh N cờ bạc, rượu chè, đánh đập chị nên chị không thể tiếp tục kéo dài cuộc sống hôn nhân như vậy.

Ngoài lời khai của chị T thì tòa án tiến hành xác minh ở địa phương về quá trình chung sống vợ chồng do chị T, anh N không sinh sống thường xuyên ở địa phương hay đi làm ăn xa nhà địa phương cũng không nắm rõ tình trạng hôn nhân của vợ chồng. Đại diện chính quyền đề nghị giải quyết ly hôn theo quy định của pháp luật.

Xét thấy, quá trình giải quyết ly hôn Tòa án đã triệu tập, thông báo, liên lạc cho anh N, nhưng anh N cố tình trốn tránh không hợp tác, tòa án đã tiến hành hòa giải hai lần nhưng anh N đều vắng mặt không có lý do nên có thể thấy anh N không muốn hòa giải để đoàn tụ vợ chồng. Vì vậy, cuộc sống hôn nhân của vợ chồng không hạnh phúc, không quan tâm và có trách nhiệm với nhau là có cơ sở nên yêu cầu ly hôn của chị Phạm Thị T là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

2.2 Về con chung: Chị T và anh N có hai con chung: Cháu Vũ Ngọc Hà, sinh ngày 01/6/2003 và cháu Vũ Văn Bình, sinh ngày 22/8/2005. Xét thấy hai cháu đang ở và đều có nguyện vọng ở với chị T. Ngoài ra, việc giao con cho ai nuôi dưỡng cần phải căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con, đặc biệt là các điều kiện cho sự phát triển về thể chất, đảm bảo việc học hành và các điều kiện cho sự phát triển tốt về tinh thần của con chưa thành niên. Mà về phía bị đơn anh N không có trình bày quan điểm gì cũng như qua xác minh hiện nay anh N không thường xuyên sinh sống ở địa phương vì vậy không đảm bảo cho việc nuôi dưỡng, chăm sóc con chung.

Do vậy, Hội đồng xét xử thấy có căn cứ để giao cháu Vũ Ngọc Hà và cháu Vũ Văn Bình cho chị Phạm Thị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác khác.

- Về cấp dưỡng nuôi con chung: Ghi nhận sự tự nguyện của chị Phạm Thị T không yêu cầu anh Vũ Văn N phải cấp dưỡng nuôi con.

2.3.Về tài sản, công nợ chung: Chị T không yêu cầu tòa án giải quyết trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không xem xét

2.4 Về án phí: Chị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, 228, 266, 272 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 21/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị T, cụ thể:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị T được ly hôn với anh Vũ Văn N.

2. Về con chung: Chị T, anh N có hai con chung: Vũ Ngọc Hà, sinh ngày 01/6/2003 và Vũ Văn Bình, sinh ngày 22/8/2005. Sau khi ly hôn, giao cháu Vũ Ngọc Hà và cháu Vũ Văn Bình cho chị Phạm Thị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Phạm Thị T tạm hoãn yêu cầu anh Vũ Văn N phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh Vũ Văn N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

xét

3.Về tài sản, nợ chung: Chị T không yêu cầu tòa giải quyết nên Tòa không

4. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Phạm Thị T phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0002739 ngày 04/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Đức, TP. Hà Nội.

5. Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 196/2020/HNGĐ-ST

Số hiệu:196/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Đức - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;