TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 111/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/03/2022 VỀ LY HÔN GIỮA Y VÀ ANH T
Ngày 29 tháng 3 năm 2022 tại Tòa án nhân dân huyện P xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 338/2021/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 12 năm 2021 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2022/QĐST- HNGĐ ngày 14 tháng 02 năm 2022 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: chị Y, sinh năm 1980 (có đơn xin vắng mặt).
2. Bị đơn: anh T, sinh năm 1984 (vắng mặt).
Cùng địa chỉ: Số 66, tổ 01, ấp PĐA, xã PT, huyện P, tỉnh An Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Tại đơn khởi kiện ngày 03 tháng 5 năm 2021 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Y trình bày:
+ Quan hệ hôn nhân: Năm 2005 thông qua mai mối, chị và anh T đồng ý kết hôn, năm 2012 đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã PT, huyện P, tỉnh An Giang, Giấy chứng nhận kết hôn số 45/2012 ngày 20/4/2012. Năm 2015 anh T đi làm công nhân tại tỉnh Bình Dương, đến năm 2017 chị cũng đi làm công nhân, lúc này chị mới biết anh T không chung thủy có quan hệ tình cảm với phụ nữ khác, chị ghen thì bị anh T cự cãi và đánh chị. Từ năm 2017 đến nay vợ chồng ly thân, hiện nay chị và anh T làm công nhân chung một công ty, gặp mặt nhau hằng ngày nhưng hai bên không hàn gắn, vì anh T đã có tình cảm với phụ nữ khác. Nay, Yêu cầuTòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh T.
+ Về nuôi con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Đặng Đ, sinh ngày 23/8/2006; Đặng Q, sinh ngày 05/7/2016, từ lúc ly thân đến nay chị nuôi con, Yêu cầu tiếp tục nuôi và không yêu cầu anh T cấp dưỡng cho con, vì chị có điều kiện nuôi con, chị làm công nhân thu nhập từ lương 10.000.000đ/tháng.
+ Về chia tài sản và nợ chung: không có.
Ngày 28/12/2021 Y có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
- Bị đơn là anh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, không cung cấp tài liệu, chứng cứ, không có lời khai và không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Theo Y trình bày, mâu thuẫn vợ chồng nêu trên có mẹ ruột bà P1 và ban ấp PĐA biết.
Tại Tờ tường trình ngày 28/12/2021 của bà Phấn trình bày, bà là mẹ ruột của Y. Năm 2017 Y và T cùng làm công nhân tại tỉnh Bình Dương, vợ chồng mâu thuẫn do Tuấn ngoại tình, sống không chung thủy, vợ chồng cự cãi và Y bị T đánh, Y điện thoại cho bà biết và bà điện thoại cho anh T khuyên can, nhưng anh T không nghe mà còn có lời lẽ thiếu văn hóa. Bà nhận thấy Y và anh T không thể trở lại sống chung, vì đã ly thân từ năm 2017 đến nay, bà đề nghị Tòa án cho Y ly hôn anh T.
Tòa án xác minh ban ấp PĐA, xã PT, huyện P, tỉnh An Giang, tại Biên bản xác minh ngày 08/02/2022 anh H là Trưởng ban ấp cho biết, anh T bỏ đi từ năm 2017 đến nay không trở về, anh không biết mâu thuẫn vợ chồng Y và anh T; ông T1 là Tổ trưởng thuộc ấp PĐA cho biết anh T bỏ đi làm từ năm 2017 đến nay không trở về, ông nghe bà con ở xóm nói anh T ngoại tình bỏ Y, còn mâu thuẫn của vợ chồng Y và anh T thì ông không biết; tại Biên bản xác minh ngày 08/02/2022 của Tòa án được anh S cho biết anh ngụ cùng ấp và gần nhà với Y, anh T, anh thấy anh T không quan tâm gia đình và anh nghe bà con ngụ cùng xóm nói anh T ngoại tình, bỏ nhà đi từ năm 2017 đến nay không trở về, anh nhận thấy vợ chồng Y, anh T khó hàn gắn trở lại sống chung.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến, việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Riêng anh T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, cho thấy anh T chưa chấp hành đúng nghĩa vụ tố tụng dân sự.
Về giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Y đối với anh T; về nuôi con chung: giao 02 con chung tên Đặng Đ, sinh ngày 23/8/2006; Đặng Q, sinh ngày 05/7/2016 cho Y nuôi dưỡng, Y không có yêu cầu anh T cấp dưỡng cho con nên anh T không phải cấp dưỡng; Y phải chịu án phí theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: chị Y khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh T, Tòa án thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Y có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố Tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt Y và anh T.
[2] Về nội dung giải quyết vụ án:
[2.1] Hôn nhân của Y và anh T là hợp pháp, vì anh chị có đăng ký kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Xét tình trạng hôn nhân của anh chị thấy rằng năm 2017 vợ chồng mâu thuẫn do anh T ngoại tình và có hành vi bạo lực gia đình, vợ chồng ly thân từ năm 2017 đến nay không hàn gắn, mẹ Y đề nghị Tòa án cho ly hôn. Từ đó, cho thấy hôn nhân của anh chị lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của Y và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, cho ly hôn giữa Y và anh T.
[2.2] Về nuôi con chung: từ lúc ly thân đến nay Y nuôi hai con chung và các cháu có cuộc sống ổn định, cháu Đặng Đ đã trên 07 tuổi cũng có nguyện vọng sống với mẹ. Căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của Y được trực tiếp nuôi 02 con Đặng Đ và Đặng Q. Y không yêu cầu anh T cấp dưỡng cho con là tự nguyện của chị, nên không xem xét.
[2.3] Căn cứ khoản 3 Điều 82, Điều 83, 84, 116 Luật Hôn nhân và gia đình anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; vì lợi ích của con khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi việc nuôi con hay mức cấp dưỡng cho con.
[2.4] Về chia tài sản: Y khai không có, nên không đề cập.
[2.5] Về nợ chung: ghi nhận Y xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có đương sự xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì hai bên phải liên đới chịu trách nhiệm trong vụ án khác.
[3] Về án phí hôn nhân sơ thẩm, Y phải chịu án phí theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82, Điều 83, 84, 116 Luật Hôn nhân và gia đình;
- Căn cứ khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Quan hệ hôn nhân: cho ly hôn giữa chị Y và anh T. Giấy chứng nhận kết hôn số 45/2012 ngày 20/4/2012 của Ủy ban nhân dân xã PT, huyện P, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.
2. Về nuôi con chung: giao 02 con chung tên Đặng Đ, sinh ngày 23/8/2006; Đặng Q, sinh ngày 05/7/2016 cho Y trực tiếp nuôi, cả hai con Y đang nuôi dưỡng. Anh T không phải cấp dưỡng cho con.
Anh T không trực tiếp nuôi con, anh có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Vì lợi ích của con khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi việc nuôi con hay mức cấp dưỡng cho con.
3. Về chia tài sản: không có.
Về nợ chung: ghi nhận Y xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có đương sự xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì hai bên phải liên đới chịu trách nhiệm trong vụ án khác.
4. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Y phải chịu 300.000đ được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ theo biên lai thu tiền số 0004230 ngày 28/12/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện P, tỉnh An Giang.
5. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Bản án về ly hôn giữa Y và anh T số 111/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 111/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - An Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 29/03/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về