TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LG, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 42/2021/HNGĐ-ST NGÀY 07/07/2021 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ V, ANH H
Ngày 07 tháng 7 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện LG tiến hành mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số: 97/2021/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 3 năm 2021 về “Tranh chấp hôn nhân gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 80/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 5 năm 2021; Thông báo thay đổi thời gian mở lại phiên tòa số 176 /TB-TA ngày 20/5/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 52/2021/QĐST-DS ngày 18/6/2021 giữa các đương sự:
-Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Cẩm V, sinh năm 1989 (có mặt) Địa chỉ: Thôn Đ 1, xã XL, huyện LG, tỉnh Bắc Giang.
-Bị đơn: Anh Hoàng Văn H, sinh năm 1983 (có mặt) Địa chỉ: Thôn Đ 1, xã XL, huyện LG, tỉnh Bắc Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn xin ly hôn cùng các lời khai tiếp theo nguyên đơn chị Phạm Thị Cẩm V trình bày như sau:
-Về quan hệ hôn nhân: Chị kết hôn với anh Hoàng Văn H ngày 28/11/2006. Trước khi cưới hai bên có tự do tìm hiểu thỏa thuận và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã XL, huyện LG, tỉnh Bắc Giang. Cưới xong vợ chồng về chung sống tại gia đình anh H ngay, thời gian đầu tình cảm vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc. Vợ chồng chung sống đến năm 2017 thì xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân do chị nghi ngờ anh H có biểu hiện ngoại tình và một phần do tính tình vợ chồng không hợp nhau nên không tìm được tiếng nói chung thường xuyên bất đồng trong quan điểm sống. Tháng 06/2020 vợ chồng chị sống ly thân cắt đứt mọi quan hệ tình cảm đó. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Hoàng Văn H.
-Về con chung: Vợ chồng chị có hai con chung là M, sinh ngày 07/4/2007 và H6, sinh ngày 09/10/2013. Hiện con khỏe mạnh phát triển bình thường và đang ở cùng anh chị. Nếu vợ chồng ly hôn chị xin nuôi con chung là M, sinh ngày 07/4/2007, anh Hoàng Văn H nuôi con chung là H6, sinh ngày 09/10/2013, vấn đề cấp dưỡng nuôi con chị không đề nghị Tòa án giải quyết. Sau khi ly hôn chị và anh H được quyền thăm nom con theo quy định của pháp luật.
-Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Chị Phạm Thị Cẩm V trình bày chị không đề nghị Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa hôm nay chị Phạm Thị Cẩm V giữ nguyên quan điểm trên.
* Tại bản tự khai bị đơn anh Hoàng Văn H trình bày như sau:
-Về quan hệ hôn nhân: Anh kết hôn với chị Phạm Thị Cẩm V ngày 28/11/2006. Trước khi cưới hai bên có tự do tìm hiểu thỏa thuận và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã XL, huyện LG, tỉnh Bắc Giang. Cưới xong vợ chồng về chung sống tại gia đình anh ngay, thời gian đầu tình cảm vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc. Vợ chồng chung sống đến năm 2017 thì xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hợp, nhưng chỉ là mâu thuẫn nhỏ nhặt trong gia đình, việc chị V nói anh có biểu hiện ngoại tình là không đúng. Tại phiên tòa anh H thừa nhận tháng 06/2020 vợ chồng anh sống ly thân cắt đứt mọi quan hệ tình cảm đó đến nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn, mục đích hôn nhân còn đạt được chị V đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Hoàng Văn H, anh không đồng ý. Nếu chị V kiên quyết xin ly hôn anh đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
-Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là M, sinh ngày 07/4/2007 và H6, sinh ngày 09/10/2013. Hiện con khỏe mạnh phát triển bình thường và đang ở cùng anh chị. Nếu vợ chồng ly hôn anh xin trực tiếp nuôi con chung là H6, sinh ngày 09/10/2013, chị Phạm Thị Cẩm V trực tiếp nuôi con chung là M, sinh ngày 07/4/2007, vấn đề cấp dưỡng nuôi con anh không đề nghị Tòa án giải quyết. Sau khi ly hôn anh và chị V được quyền thăm nom con theo quy định của pháp luật.
-Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Anh Hoàng Văn H trình bày anh không đề nghị Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa hôm nay anh Hoàng Văn H giữ nguyên quan điểm trên.
Vụ án không thuộc trường hợp Viện kiểm sát nhân dân huyện LG tham gia phiên tòa theo quy định tại khoản 2 Điều 21 của Bộ luật tố tụng dân sự nên Viện kiểm sát nhân dân huyện LG không tiến hành phân công Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra chứng cứ tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Tòa án đã giao tống đạt các văn bản tố tụng cho các đương sự đầy đủ theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa các đương sự đều có mặt. Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Cẩm V kết hôn anh Hoàng Văn H ngày 28/11/2006 trên cơ sở tự nguyện hợp pháp và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã XL. Cưới xong vợ chồng về chung sống với gia đình anh H ngay, thời gian đầu tình cảm vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc. Vợ chồng chung sống đến năm 2017 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do chị V nghi nghờ anh H có biểu hiện ngoại tình, một phần do tính tình vợ chồng không hợp nhau nên thường xuyên bất đồng trong quan điểm sống. Do vợ chồng mâu thuẫn tháng 06/2020 vợ chồng anh chị sống ly thân cắt đứt mọi quan hệ tình cảm đó. Nay phía chị V xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được chị V tha thiết xin ly hôn, tại phiên tòa phía anh Hoàng Văn H không đồng ý ly hôn nhưng thừa nhận đã nhiều năm nay vợ chồng không còn quan hệ tình cảm. Nếu chị V kiên quyết xin ly hôn anh đề nghị giải quyết theo pháp luật. Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án xét thấy mâu thuẫn tình cảm vợ chồng giữa chị V, anh H đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nên căn cứ Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Phạm Thị Cẩm V được ly hôn anh Hoàng Văn H.
[3] Về con chung: Chị Phạm Thị Cẩm V và anh Hoàng Văn H có hai con chung là M, sinh ngày 07/4/2007 và H6, sinh ngày 09/10/2013. Hiện con khỏe mạnh phát triển bình thường và đang ở cùng anh chị. Tại phiên tòa chị Phạm Thị Cẩm V và anh Hoàng Văn H thống nhất thỏa thuận sau khi ly hôn anh Hoàng Văn H là người trực tiếp nuôi con chung là H6, sinh ngày 09/10/2013. Chị Phạm Thị Cẩm V trực tiếp nuôi con chung là M, sinh ngày 07/4/2007. Xét việc tự nguyện thỏa thuận người trực tiếp nuôi con chung sau khi ly hôn của anh chị là tự nguyện phù hợp với quy định của pháp luật, anh chị có công ăn việc làm và thu nhập ổn định, có đủ điều kiện để nuôi con. Nên căn cứ vào Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình giao cho anh Hoàng Văn H là người trực tiếp nuôi con chung là H6, sinh ngày 09/10/2013. Chị Phạm Thị Cẩm V trực tiếp nuôi con chung là M, sinh ngày 07/4/2007, vấn đề góp cấp dưỡng nuôi con do các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không đặt ra xem xét giải quyết. Sau khi ly hôn chị Phạm Thị Cẩm V và anh Hoàng Văn H có quyền thăm nom con, chăm sóc, giáo dục con theo quy định tại Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình.
[4] Về tài sản, nghĩa vụ chung về tài sản: Các đương sự không đề nghị Tòa án giải quyết, nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết.
[5] Về án phí: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 24, Điều 26, khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm,thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị Phạm Thị Cẩm V phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng chị đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số AA/2019/0002931 ngày 26/3/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện LG, tỉnh Bắc Giang.
[6] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 271, Điều 272, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147, Điều 227, Điều 271, Điều 272, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 24, Điều 26, khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị Cẩm V được ly hôn anh Hoàng Văn H.
2. Về con chung: Giao chị Phạm Thị Cẩm V trực tiếp nuôi con chung là M, sinh ngày 07/4/2007.
Giao anh Hoàng Văn H trực tiếp nuôi con chung là H6, sinh ngày 09/10/2013, vấn đề cấp dưỡng nuôi con không đặt ra xem xét giải quyết. Sau khi ly hôn chị Phạm Thị Cẩm V, anh Hoàng Văn H được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Phạm Thị Cẩm V phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng chị đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số AA/2019/0002931 ngày 26/3/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện LG, tỉnh Bắc Giang.
4. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về ly hôn giữa chị V, anh H số 42/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 42/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 07/07/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về