Bản án về khiếu kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 10/2022/HC-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH Đ

BẢN ÁN 10/2022/HC-ST NGÀY 29/04/2022 VỀ KHIẾU KIỆN YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT 

Ngày 29 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở tòa án nhân dân tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 77/2021/TLST-HC ngày 02 tháng 6 năm 2021 về Khiếu kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2022/QĐXXST-HC ngày 06 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

Người khởi kiện: Bà Lê Thị Mỹ P, sinh năm: 1964. Địa chỉ: Tổ 1, ấp H, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đ.

Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện T. Địa chỉ: Số 175, đường Nguyễn Tất T, khu 7, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đ.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Hữu K, chức vụ: Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Đ.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phạm Ngọc H, chức vụ: Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Đ.

(Theo văn bản ủy quyền tại bút lục số 71A).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Thanh L, sinh năm: 1985.

HKTT: Khu 5, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đ.

Chỗ ở hiện nay: Số nhà 900B, tổ 4, ấp 7, xã P, huyện T, tỉnh Đ.

2. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm: 1956.

Địa chỉ: Số 80, tổ 21, khu 6, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đ.

(Bà P có mặt, đại diện Ủy ban nhân dân huyện T, bà T và ông L có đơn xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 26/4/2021, bản tự khai, biên bản biên bản đối thoại và tại phiên tòa Người khởi kiện bà Lê Thị Mỹ P trình bày:

Vào năm 2008, bà có nhận chuyển nhượng của bà Nguyễn Thị T thửa đất số 786, tờ bản đồ số 9, diện tích 220m2 tọa lạc tại xã P, huyện T, tỉnh Đ. Sau khi chuyển nhượng, bà đã được Ủy ban nhân dân huyện T công nhận quyền sử dụng đất (không cấp sổ mới mà chỉ chỉnh lý ở trang 4 của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 636749). Nay bà được biết thông tin về thửa đất trên giấy chứng nhận không trùng khớp với thông tin trên bản đồ địa chính. Cụ thể: Qua kiểm tra xác minh và phối hợp giữa Ủy ban nhân dân xã P và Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đ - Chi nhánh huyện T đã tiến hành đo đạc kiểm tra theo kết quả Trích lục đo tách thửa đất bản đồ địa chính số 121/2018 ngày 24/01/2018 thì thửa đất của bà đang sử dụng là thửa 306, tờ bản đồ số 9, diện tích 209,5m2 loại đất ONT. Việc sai sót này làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền sử dụng đất của bà. Do đó, bà yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Đ hủy Quyết định hành chính cá biệt của Ủy ban nhân dân huyện T là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 636749 đối với thửa đất số 786, tờ bản đồ số 9 diện tích 220m2 tọa lạc tại xã P, huyện T, tỉnh Đ vì cấp sai vị trí để bà có cơ sở cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng vị trí thực tế mà bà quản lý sử dụng.

- Theo Văn bản số 2411/UBND-KT ngày 27/7/2021, Người bị kiện Ủy ban nhân dân huyện T có ý kiến như sau:

Căn cứ hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Lê Thị Mỹ P đang lưu trữ, xét biên bản làm việc ngày 26/10/2018, Báo cáo số 189/BC-UBND ngày 24/12/2020 của Ủy ban nhân dân xã P, Ủy ban nhân dân huyện T có ý kiến như sau: Ủy ban nhân dân xã P kiểm tra, đối chiếu ngoài thực địa thì bà Lê Thị Mỹ P đang sử dụng thửa đất số 306, tờ bản đồ số 9, diện tích 209,5m2, không phải thửa 786, tờ bản đồ số 9. Vì vậy, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Lê Thị Mỹ P là sai vị trí. Nguồn gốc được tách thửa từ thửa đất số 290 cấp cho bà Phạm Thị B, sinh năm 1959, chứng minh nhân dân số 271021068, địa chỉ: Ấp 7, xã P, huyện T, tỉnh Đ. Ngày 08/12/2005 tách thành thửa 290 và 786. Thửa 786 ngày 24/01/2006 chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1956, chứng minh nhân dân số 271853588, địa chỉ: khu 7, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đ theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 28/CN được Ủy ban nhân dân xã P xác nhận ngày 26/12/2005. Ngày 28/3/2008, bà T chuyển nhượng cho bà Lê Thị Mỹ P theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 93, quyển số 02 TP/CC - SCT/HĐGD được Ủy ban nhân dân xã P xác nhận ngày 25/02/2008.

Từ những nội dung trên, Ủy ban nhân dân huyện T đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đ quyết theo quy định pháp luật.

Ngoài ra, người đại diện theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân huyện T đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt, đề nghị không tiếp tục tiến hành đối thoại vì nhậ n thấy khiếu kiện giữa bà P và Ủy ban nhân dân huyện T không cần thiết phải tiếp tục đối thoại tại Tòa án để vụ án được giải quyết nhanh chóng.

- Theo Biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 09/3/2022 và Đơn đề nghị giải quyết vắng mặt đề ngày 09/3/2022, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị T có ý kiến như sau:

Năm 2008, bà có chuyển nhượng cho bà Lê Mỹ P thửa đất số 786, tờ bản đồ số 09, diện tích 220m2 tại xã P, huyện T với giá 93.000.000đ. Hai bên có làm thủ tục chuyển nhượng tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc bà P yêu cầu Tòa án hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 636749 đối với thửa đất số 786, tờ bản đồ số 9 diện tích 220m2 tọa lạc tại xã P, huyện T, tỉnh Đ cấp cho bà ngày 24/01/2006, đã cập nhận trang 4 cho bà P thì bà không có ý kiến vì bà đã chuyển nhượng cho bà P đúng quy định của pháp luật.

- Theo Đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt đề ngày 21/12/2021, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Thanh L có ý kiến như sau:

Ông yêu cầu Tòa án cho ông được vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, được vắng mặt tại các buổi làm việc, các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại, phiên tòa sơ thẩm. Đối với yêu cầu khởi kiện của bà P thì ông đồng ý hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà T tại thửa số 786, tờ số 9, xã P để cấp lại cho đúng đối tượng.

- Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tinh Đ tại phiên tòa:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã chấp hành và thực hiện theo đúng quy định của Luật tố tụng hành chính.

Việc tuân theo pháp luật của đương sự: Người khởi kiện thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Luật tố tụng hành chính. Người bị kiện chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật tố tụng hành chính. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình đúng quy định của Luật tố tụng hành chính.

Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Đ.

Thời hiệu khởi kiện: Thởi hiệu khởi kiện vẫn còn theo quy định tại khoản 2 Điều 116 của Luật tố tụng hành chính.

Về quan hệ pháp luật: Tòa án xác định quan hệ pháp luật “Khiếu kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” là đúng yêu cầu khởi kiện của đương sự, đúng quy định của pháp luật.

Về thời hạn giải quyết vụ án: Tòa án đảm bảo đúng thời hạn giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 130 của Luật tố tụng hành chính.

Về cấp, tống đạt văn bản tố tụng: Tòa án đã thực hiện đúng quy định của Luật tố tụng hành chính.

Về thu thập chứng cứ: Tòa án đã thu thập đầy đủ chứng cứ theo quy định tại Điều 84 của Luật tố tụng hành chính.

Về đường lối giải quyết vụ án:

Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Ủy ban nhân dân huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà T là đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục quy định của pháp luật.

Về nội dung, tính có căn cứ của quyết định hành chính bị khởi kiện:

Năm 2006, bà Nguyễn Thị T được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất số 786, tờ bản đồ số 9, diện tích 220m2 tọa lạc tại xã P, huyện T, tỉnh Đ nhưng thực tế bà T đang sử dụng thửa đất thửa 306, tờ bản đồ số 9 diện tích 209,5m2. Năm 2008, bà T chuyển nhượng lại cho bà P toàn bộ diện tích theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp như nêu trên. Qua kiểm tra thực địa của Ủy ban nhân dân xã P và Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đ - chi nhánh T xác định bà T (nay là bà P) đang sử dụng thửa đất thửa 306, tờ bản đồ số 9 diện tích 209,5m2. Ủy ban nhân dân huyện T cũng thừa nhận cấp đất cho bà T sai vị trí. Do đó, yêu cầu khởi kiện của bà P là có căn cứ chấp chấp nhận. Từ những phân tích trên cho thấy yêu cầu khởi kiện của bà P là có cơ sở nên được chấp nhận. Đề nghị căn cứ khoản 2, điều 106 Luật đất đai, khoản 2 Điều 193 của luật tố tụng hành chính: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Mỹ P. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 636749 do Ủy ban nhân dân huyện T cấp ngày 24 tháng 01 năm 2006 cấp cho bà Nguyễn Thị T, đã chỉnh lý trang 4 cho bà Lê Thị Mỹ P ngày 28 tháng 3 năm 2008.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật:

Bà Lê Thị Mỹ P yêu cầu Tòa án giải quyết hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 636749 do Ủy ban nhân dân huyện T cấp ngày 24 tháng 01 năm 2006 cấp cho bà Nguyễn Thị T, đã chỉnh lý trang 4 cho bà Lê Thị Mỹ P ngày 28/3/2008. Vì vậy, xác định quan hệ pháp luật là “Khiếu kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

[1.2] Về thẩm quyền giải quyết: Bà P khởi kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện T cấp nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Đ, theo quy định tại Điều 30, Điều 32 của Luật tố tụng hành chính.

[1.3] Về thời hiệu: Bà P nhận chuyển nhượng đất của bà T năm 2008 và được chỉnh lý trang 4 ngày 28/3/208. Đến năm 2018, qua đo đạc để xây dựng nhà ở thì mới phát hiện đất cấp sai vị trí (từ khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà T ngày 24/01/2006, chỉnh lý trang 4 cho bà Lê Thị Mỹ P ngày 28/3/2008 thì bà T, bà P và cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất huyện T không biết và không phát hiện được việc cấp sai vị trí, đến khi có Trích lục đo tách thửa đất bản đồ địa chính số 121/2018 ngày 24/01/2018 thì mới phát hiện cấp sai vị trí). Bà P đã yêu cầu Ủy ban nhân dân xã P và cấp có thẩm quyền điều chỉnh lại cho đúng hiện trạng.

Ngày 26/10/2018, Ủy ban nhân dân xã P có tờ trình số 512/TTr-UBND đề nghị Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đ - chi nhánh T và Phòng tài nguyên môi trường huyện T trình cơ quan có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 636749 cấp cho bà Nguyễn Thị T, đã chỉnh lý trang 4 cho bà Lê Thị Mỹ P. Ngày 24/12/2020, Ủy ban nhân dân xã P có báo cáo số 189 việc giải quyết đơn xin thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà P, trong đó có nội dung để nghị Tòa án các cấp xem xét theo quy định. Ngày 26/4/2021, bà P có đơn khởi kiện, do đó việc khởi kiện của người khởi kiện bà Lê Thị Mỹ P là còn thời hiệu theo quy định tại Điều 116 của Luật tố tụng hành chính.

[1.4] Về việc xét xử vắng mặt đương sự: Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện Ủy ban nhân dân huyện T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Thanh L và bà Nguyễn Thị T đề nghị giải quyết vắng mặt. Căn cư Điều 157, Điều 158 của Luât tố tụng hành chính, tiến hanh xet xư vắng măt người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nêu trên.

[2] Xét tính hợp pháp của việc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị T, đã được cập nhận chỉnh lý trang 4 cho bà Lê Thị Mỹ P:

[2.1] Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất:

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ thu thập trong hồ sơ vụ án thì Ủy ban nhân dân huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số AB 636749 ngày 24 tháng 01 năm 2006 cho bà Nguyễn Thị T, chỉnh lý trang 4 cho bà Lê Thị Mỹ P ngày 28/3/2008 là đúng trình tự, thẩm quyền theo quy định của Luật đất đai năm 2003.

[2.2]: Về nội dung, tính có căn cứ của quyết định hành chính bị khởi kiện:

Về nguồn gốc đất: Nguồn gốc đất của bà T được tách thửa từ thửa đất số 290 cấp cho bà Phạm Thị B. Ngày 08/12/2005 tách thành thửa 290 và 786. Thửa 786 ngày 24/01/2006 chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị T theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 28/CN được Ủy ban nhân dân xã P xác nhận ngày 26/12/2005. Năm 2008, bà T chuyển nhượng cho bà Lê Thị Mỹ P theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 93, quyển số 02 TP/CC - SCT/HĐGD được Ủy ban nhân dân xã P xác nhận ngày 25/02/2008. Ủy ban nhân dân huyện T đã chỉnh lý trang 4 cho bà Lê Thị Mỹ P ngày 28/3/2008. Bà P đã sử dụng diện tích đất này từ khi chuyển nhượng cho đến nay.

Quá trình xác minh diện tích đất thực tế của bà T đã chuyển nhượng cho bà P đang sử dụng: Căn cứ hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Lê Thị Mỹ P, xét Biên bản làm việc ngày 26/10/2018, Tờ trình số 512/TTr-UBND ngày 26/10/2018 và Báo cáo số 189/BC-UBND ngày 24/12/2020 của Ủy ban nhân dân xã P đã thẩm tra, đối chiếu ngoài thực địa bà Lê Thị Mỹ P đang sử dụng thửa đất số 306, tờ bản đồ số 9, diện tích 209,5m2, không phải thửa 786, tờ bản đồ số 9. Vì vậy, Ủy ban nhân dân huyện T xác định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Lê Thị Mỹ P là sai vị trí. Tòa án nhân dân tỉnh Đ đã tiền hành xem xét thẩm định tại chỗ ngày 21/12/2021, qua xem xét thể hiện bà Lê Thị Mỹ P đang sử dụng thửa đất số 306, tờ bản đồ số 9, diện tích 209,5m2 (diện tích đất này không ai đăng ký) chứ không phải thửa 786, tờ bản đồ số 9, xã P. Thực tế, thửa thửa 786, tờ bản đồ số 9, xã P do anh Nguyễn Thanh L đang sử dụng, cất nhà ở ổn định (đất do mẹ anh L là bà Nguyễn Thị N đứng tên và được cấp giấy là thửa đất số 290, tờ bản đồ số 9). Song thực tế thửa đất số 290, tờ bản đồ số 9, xã P do ông Lý Ngọc H đang quản lý, sử dụng.

Bà P có đơn yêu cầu cấp có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà T ngày 24/01/2006 và chỉnh lý trang 4 cho bà Lê Thị Mỹ P ngày 28/3/2008. Ủy ban nhân dân xã Phú T cũng đã có Tờ trình số 521/TTr-UBND ngày 26/10/2018 đề nghị Văn phòng đăng ký đất đai, phòng tài nguyên và môi trường huyện T trình cấp có thẩm quyền thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 636749 để cấp lại cho bà P đúng vị trí nhưng Văn phòng đăng ký đất đai, phòng tài nguyên và môi trường huyện T không có ý kiến phản hồi. Sau đó, Ủy ban nhân dân xã P có Báo cáo số 189/BC-UBND ngày 24/12/2018 về việc giải quyết đơn xin thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Lê Thị Mỹ P, nội dung báo cáo có đề nghị Tòa án nhân dân các cấp xem xét theo quy định của pháp luật. Vì vậy, bà P khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 636749 ngày 24/01/2006 cấp cho bà Nguyễn Thị T, chỉnh lý trang 4 cho bà Lê Thị Mỹ P ngày 28/3/2008, yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện T cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà đúng vị trí, số thửa và diện tích thực tế theo quy định của pháp luật đất đai.

Xét thấy, bà Nguyễn Thị T được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2006, chuyển nhượng cho bà P năm 2008 và bà P được chỉnh lý trang 4 ngày 28/3/2008, đối chiếu với quy định của Luật đất đai năm 2003, Điều 135 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật đất đai 2003 và Điều 7, Điều 8, Điều 14, Điều 15, Điều 16 Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất thì Ủy ban nhân dân huyện T thực hiện chưa đầy đủ theo quy định về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị T, dẫn đến chỉnh lý trang 4 cho bà P cũng không đúng số thửa đất (sai vị trí). Ủy ban nhân dân huyện T cũng thừa nhận việc cấp đất cho bà T là sai vị trí. Cụ thể: Bà T (nay là bà P) đang sử dụng thửa đất số 306, tờ bản đồ số 09, xã P nhưng khi cấp giấy thì lại cấp thửa số 786, tờ bản đồ số 09 là cấp không đúng vị trí, không đúng thực tế hiện trạng đất mà bà T (nay là bà P) đang sử dụng. Sai sót xảy ra do lỗi của cơ quan có thẩm quyền huyện T trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của bà Phượng. Bà P đã yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện T thu hồi giấy chứng nhận để cấp lại cho đúng nhưng Ủy ban nhân dân huyện T phản hồi yêu cầu của bà P. Đồng thời, do bà Thủy đã chuyển nhượng đất được cấp sai vị trí cho bà P nên theo điểm d, khoản 2, Điều 106 của Luật đất đai 2013; Khoản 56, Điều 2 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật đất đai; Điều 87 Nghị Định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết về thi hành một số điều của Luật đất đai; Khoản 26 Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành luật đất đai thì Ủy ban nhân dân huyện T không được phép thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp sai trong trường hợp người được cấp giấy đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

Từ những phân tích trên cho thấy yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Mỹ P là có căn cứ, nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của P. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 636749 do Ủy ban nhân dân huyện T cấp ngày 24/01/2006 cấp cho bà Nguyễn Thị T, đã chỉnh lý trang 4 cho bà Lê Thị Mỹ P ngày ngày 28/3/2008. Ủy ban nhân dân huyện T có trách nhiệm cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Lê Thị Mỹ P đúng với hiện trạng đất mà bà Lê Thị Mỹ P đang quản lý sử dụng theo quy định của pháp luật đất đai hiện hành.

[3] Về chi phí tố tụng: Bà Lê Thị Mỹ P tự nguyện chịu chi phí tố tụng là 1.200.000đ. Bà P đã nộp đủ tiền chi phí tố tụng.

[4] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của bà P được chấp nhận nên Ủy ban nhân dân huyện T phải chịu án phí hành chính sơ thẩm là 300.000đ. Hoàn trả lại cho và bà P số tiền 300.000đ tạm ứng án phí theo biên lai số 0002658 ngày 13/5/2021 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Đ.

[5] Về quyền kháng cáo: Bà Lê Thị Mỹ P có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ủy ban nhân dân huyện T, ông Nguyễn Thanh L và bà Nguyễn Thị T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

[6] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát phù hợp tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ nên chấp nhận.

Vì những lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 3, 30, 32, 115, 116, 157, 158, 193, 194, 206 của Luật tố tụng hành chính 2015;

Áp dụng Điều 46, 48, 49, 52, 105, 106, 107, 127 của Luật đất đai năm 2003;

Áp dụng Điều 59, 97, 99, 106, 166, 169, 170, 179, 195 của Luật đất đai năm 2013;

Áp dụng Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật đất đai 2003;

Áp dụng Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất;

Áp dụng Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai;

Áp dụng Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật đất đai;

Áp dụng Nghị định số 148/2020/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành luật đất đai;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 31/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Mỹ P. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 636749 do Ủy ban nhân dân huyện T cấp ngày 24 tháng 01 năm 2006 cho bà Nguyễn Thị T, đã chỉnh lý trang 4 cho bà Lê Thị Mỹ P ngày ngày 28 tháng 3 năm 2008.

Ủy ban nhân dân huyện T có trách nhiệm cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Lê Thị Mỹ P đúng với hiện trạng đất mà bà Lê Thị Mỹ P đang quản lý, sử dụng theo quy định của pháp luật đất đai hiện hành.

Về án phí: Ủy ban nhân dân huyện T phải chịu tiền án phí hành chính sơ thẩm là 300.000đ.

Hoàn trả lại cho bà Lê Thị Mỹ P số tiền 300.000đ tạm ứng án phí theo biên lai số 0002658 ngày 13/5/2021 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Đ.

Về quyền kháng cáo: Bà Lê Thị Mỹ P có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ủy ban nhân dân huyện T, ông Nguyễn Thanh L và bà Nguyễn Thị T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

9376
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về khiếu kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 10/2022/HC-ST

Số hiệu:10/2022/HC-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Nông
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 29/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;