Bản án về khiếu kiện quyết định hành vi hành chính trong quản lý Nhà nước về đất đai số 488/2022/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 488/2022/HC-PT NGÀY 30/06/2022 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH VI HÀNH CHÍNH TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI

Ngày 30 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 150/2022/TLPT- HC ngày 05 tháng 4 năm 2022 về việc “Khiếu kiện quyết định hành vi hành chính trong quản lý Nhà nước về đất đai”.

Do Bản án hành chính sơ thẩm số 05/2022/HC-ST ngày 23 tháng 02 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 995/2022/QĐPT-HC ngày 10 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

- Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1938 (có mặt) Địa chỉ: Khóm X2, thị trấn U, huyện U, tỉnh Cà Mau.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà L:

1/ Luật sư Nguyễn Văn T1 - Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt)

2/Luật sư Vũ Văn T2 - Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt)

- Người bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện U, tỉnh Cà Mau (xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Khóm x3, thị trấn U, huyện U, tỉnh Cà Mau.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Trần Thanh T5 – Phó trưởng phòng Tài nguyên và môi trường huyện U, tỉnh Cà Mau (có mặt) Địa chỉ: Khóm X2, thị trấn U, huyện U, tỉnh Cà Mau.

- Người kháng cáo: Người khởi kiện bà Nguyễn Thị L.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Người khởi kiện trình bày:

Bà Nguyễn Thị L là chủ phần đất diện tích 2.880m2 tại Khóm X2, thị trấn U, huyện U. Nguồn gốc nhận chuyển nhượng giấy tay của bà Đào Thị Đ vào ngày 15/02/1980 và sử dụng ổn định liên tục từ năm 1980 đến nay. Năm 2002 bà L đứng tên mục kê thửa số 17, tờ bản đồ số 36 tại Khóm X2, thị trấn U, huyện U diện tích 2.041,1m2. Năm 2008 Uỷ ban nhân dân huyện U thu hồi 01 phần đất; Năm 2013 thu hồi 01 phần đất nhưng không ban hành quyết định.

Năm 2014 Ủy ban nhân dân huyện U thu hồi 675m2 (ngang 15 mét dài 45 mét) trong tổng số 2.880m2 theo sổ mục kê là 2.041,1m2. Giao cho đơn vị Quản lý thị trường số 7 tỉnh Cà Mau (nay là số 6), mà không ban hành quyết định thu hồi đối với phần đất 675m2. Đất bà đã đứng tên trong sổ mục kê đất đai, những đơn vị quản lý thị trường số 7 đang trực tiếp sử dụng diện tích 675m2 đất nói trên. Hiện nay bà đang quản lý sử dụng 300m2, phần còn lại diện tích 1.741,1m2 Uỷ ban nhân dân huyện U quản lý (Trong 1.741,1m2 có 675m2 Quản lý thị trường sử dụng.

Nay bà yêu cầu Tòa án buộc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện U chấm dứt hành vị thu hồi phần đất diện tích 1.741,1m2 thửa số 17, tờ bản đồ số 36 tại Khóm 2 thị trấn U Minh, huyện U. Yêu cầu giải quyết hậu quả của việc thu hồi đất, nhưng không nêu mức độ thiệt hại.

Người bị kiện Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện U trình bày:

Về nguồn gốc đất là của Nhà nước quản lý từ năm 1979 khi thành lập huyện U, sau đó dùng làm trụ sở Công đoàn, khi đó bà L làm Chủ tịch công đoàn, không phải đất của bà L.

Đối với bà L là gia đình có công Cách mạng và đã có thời gian canh tác trên đất nên Ủy ban huyện U đã xem xét. Tại Quyết định số 1925/QĐ -UBND ngày 24/9/2012 của Uỷ ban nhân dân huyện U bác yêu cầu bà L và cấp cho bà L 1,5 ha đất rừng sản xuất và xét cấp thêm 300m2 đất thổ cư, hỗ trợ số tiền 30.000.000 đồng cất nhà trên phần đất thổ cư xét cấp. Do gia đình bà L và bà L có cam kết giao lại phần đất diện tích 1.741,1m2 xung quanh phần đất được cấp 300m2 khi Nhà nước có nhu cầu, trong đó có phần đất đã giao cho Đội quản lý thị trường. Bà L cho rằng phần đất tranh chấp hiện nay là của bà, nhưng thực tế không đúng. Vì tại Quyết định số 2244 ngày 29/7/2014 Ủy ban nhân dân huyện U bác yêu cầu khiếu nại bà L về công nhận phần đất 1.741,1m2. Bà L có khiếu nại đến Ủy ban tỉnh Cà Mau, Ủy ban tỉnh Cà Mau có Quyết định số 1131/QĐ- UB ngày 05/8/2015 về việc giữ nguyên quyết định của Ủy ban nhân dân huyện U, bà L đã khởi kiện tại Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau và không được chấp nhận. Từ đó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện U không đồng ý với yêu cầu của bà L. .

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 05/2022/HC-ST ngày 23 tháng 02 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau đã quyết định như sau:

Bác yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L về việc: Buộc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện U, chấm dứt hành vi thu hồi phần đất diện tích 1.741,1m2 tại Khóm X2, thị trấn U, huyện U.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 08/3/2022 người khởi kiện bà Nguyễn Thị L kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện bà Nguyễn Thị L vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện. Người bị kiện Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện U tỉnh Cà Mau xin xét xử vắng mặt.

Trong phần tranh luận:

Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện phát biểu: Tòa án cấp sơ thẩm đã có vi phạm tố tụng khi không tiến hành thẩm định tại chỗ, không thu thập chứng cứ quan trọng tại Uỷ ban nhân dân, các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thu thập không đúng trình tự thủ tục tố tụng. Hơn nữa, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá chứng cứ không khách quan, không chính xác gây ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của người khởi kiện. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án về cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.

Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho người bị kiện giữ nguyên lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh nêu quan điểm giải quyết vụ án:

Về thủ tục tố tụng Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã tiến hành đúng theo qui định của luật tố tụng hiện hành, không làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.

Xét về nội dung vụ án: Bản án sơ thẩm đã xét xử là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Người khởi kiện có yêu cầu kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh. Đề nghị Hội đồng xét xử bác yêu cầu kháng cáo của đương sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát,

 [1] Về tố tụng:

Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện đầy đủ thủ tục tố tụng, không làm ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của đương sự.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người bị kiện Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện U không có kháng cáo, có đơn xin xét xử vắng mặt. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 225 Luật Tố tụng hành chính tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung vụ án:

Phần đất có diện tích 1.741,1m2 tại Khóm X2, thị trấn U, huyện U, tỉnh Cà Mau do Uỷ ban nhân dân huyện U quản lý. Bà Nguyễn Thị L cho rằng phần đất trên thuộc quyền sử dụng của gia đình bà, Uỷ ban nhân dân huyện U quản lý phần đất trên nhưng không thực hiện việc thu hồi, bồi thường theo quy định pháp luật là ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của gia đình bà. Do vậy, bà L khởi kiện yêu cầu Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện U chấm dứt hành vị thu hồi phần đất diện tích 1.741,1m2 thửa số 17, tờ bản đồ số 36 tại Khóm 2 thị trấn U Minh, huyện U; Yêu cầu giải quyết hậu quả của việc thu hồi đất, nhưng không nêu mức độ thiệt hại.

[3] Nhận định của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau:

[3.1] Năm 2012, bà L yêu cầu Uỷ ban nhân dân huyện U công nhận quyền sử dụng phần đất diện tích 1.741,1m2 tờ bản đồ số 36 tại Khóm X2, thị trấn U, huyện U, tỉnh Cà Mau. Ngày 24/9/2012 Uỷ ban nhân dân huyện U ban hành Quyết định số 1925/QĐ-UBND bác yêu cầu của bà L với lý do: Nguồn gốc phần đất bà L yêu cầu là đất của Nhà nước quản lý từ năm 1979, đất này được dùng làm trụ sở Công đoàn và các cơ quan cấp huyện, bà L sử dụng đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nguồn gốc đất do chính quyền Chế độ Sài Gòn trước năm 1975 sử dụng làm trụ sở Hội đồng xã K và Đồn nghĩa quân. Sau 30/4/1975 Nhà nước tiếp quản và quản lý.

Năm 1979 thành lập huyện U Nhà nước xây dựng các cơ quan đoàn thể của huyện. Thời điểm này bà Đào Thị Đ là chủ phần đất có đơn xin lại phần đất này, nhưng chưa được giải quyết thì bà Đ làm giấy tay chuyển nhượng cho bà L năm 1980. Tại thời điểm chuyển nhượng cho bà L, thì bà Đ cũng không có giấy tờ chứng minh nguồn gốc đất, và thời điểm này Luật đất đai 1987 nghiêm cấm mua bán lấn chiếm đất đai, phát canh thu tô.... , nên việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Đ và bà L không đúng quy định pháp luật.

Năm 2014 bà L tiếp tục yêu cầu Uỷ ban nhân dân huyện U bồi thường về đất và cây trái hoa màu cho bà L. Ngày 29/7/2014 Uỷ ban nhân dân huyện U ban hành Quyết định số 2244/QĐ-UBND giải quyết bác đơn yêu cầu của bà L, bà L tiếp tục khiếu nại. Ngày 05/8/2015 Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Cà Mau ban hành Quyết định số 1131/QĐ-UBND giải quyết khiếu nại không chấp nhận yêu cầu khiếu nại của bà L, và giữ nguyên quyết định số 2244/QĐ-UBND ngày 29/7/2014 của Uỷ ban nhân dân huyện U. Đến ngày 8/6/2017 bà L khởi kiện đến Tòa án tỉnh Cà Mau, yêu cầu hủy quyết định số 1131/QĐ-UBND ngày 05/8/2015 của Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau. Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm bác yêu cầu của bà L, bà L tiếp tục kháng cáo sau đó rút lại yêu cầu khởi kiện.

Ngày 12/10/2017, bà L khởi kiện Đội quản lý thị trường số 6 về việc yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về cây ăn trái, hoa màu, công sức, cải tạo đất. làm tăng giá trị đất. Tại bản án phúc thẩm số 160/DS-PT ngày 18/6/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau đã hủy bản án dân sự sơ thẩm số 08/2012/DSST ngày 26/3/2019 của Tòa án nhân dân huyện U lý do: Uỷ ban nhân dân tỉnh Cà Mau đã ban hành Quyết định số 1131/QĐ-UBND ngày 05/8/2015 không chấp nhận yêu cầu khiếu nại của bà L và giữ nguyên Quyết định số 2244/QĐ-UBND của Uỷ ban nhân dân huyện U. Quyết định số 2244/QĐ-UBND ngày 29/7/2014 và Quyết định số 1131/QĐ-UBND ngày 05/8/2015 đã có hiệu lực pháp luật thi hành. Bản thân Uỷ ban nhân dân huyện U không ban hành quyết định thu hồi đất của bà mà chỉ ban hành quyết định giải quyết tranh chấp.

[3.2] Bà L tiếp tục khởi kiện Uỷ ban nhân dân huyện U về hành vi thu hồi phần đất 1.741,1m2 nhưng không có văn bản. Tuy nhiên, năm 2012 bà L có yêu cầu công nhận đất cho bà và đã được giải quyết tại Quyết định số 1952/QĐ- UBND của Uỷ ban nhân dân huyện U. Đồng thời tại quyết định này đã công nhận cho bà L 300m2 đất thổ cư để cất nhà (Giao đất không thu tiền) hỗ trợ cho bà L số tiền 30.000.000 đồng và giao cho bà 1,5ha đất rừng sản xuất ổn định cuộc sống. Bà L cũng đã khiếu nại Uỷ ban nhân dân tỉnh Cà Mau, cho rằng đất này là của bà nhận chuyển nhượng của bà Đ, còn Uỷ ban nhân dân huyện U xác định đất này của Nhà nước quản lý. Tại tờ cam kết ngày 10/12/2005 bà L có cam kết “Phần đất còn lại xung quanh khu nhà ở...v...v... tôi sẽ trả đất lại cho Nhà nước mà không yêu cầu bồi thường thiệt hại về đất”. Mặc dù bà L cho rằng chữ ký trong Tờ cam kết không phải là của bà, nhưng Kết luận số 7171/C54- P5 ngày 24/11/2016 của Viện Khoa học hình Sự -Tổng Cục cảnh sát kết luận: Chữ ký tên Nguyễn Thị L tại “Tờ cam kết” do bà L ký ra, nên việc bà L không thừa nhận ký là không có căn cứ. Do Quyết định số 1131/QĐ-UBND ngày 05/8/2015 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Cà Mau đã có hiệu lực pháp luật thi hành, nội dung yêu cầu của bà L đã được giải quyết bằng 01 quyết định có hiệu lực, nhưng do bà L tiếp tục khởi kiện hành vi của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện U là không có căn cứ chấp nhận.

[4] Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:

Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đầy đủ, toàn diện tài liệu chứng cứ trong hồ sơ và quyết định bác yêu cầu khởi kiện của bà L là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Bà L kháng cáo nhưng không xuất trình được chứng cứ nào mới chứng minh cho yêu cầu kháng cáo. Do vậy, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa, bác yêu cầu kháng cáo của người có kháng cáo, giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau.

[5] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6] Án phí hành chính phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị L sinh năm 1938 nên được miễn án phí theo quy định tại Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015,

I/Bác yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị L; Giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm số 05/2022/HC-ST ngày 23/02/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau.

Tuyên xử:

1. Bác yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L về việc: Buộc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện U chấm dứt hành vi thu hồi phần đất diện tích 1.741,1m2 tại Khóm X2, thị trấn U, huyện U, tỉnh Cà Mau.

2. Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

II/Án phí hành chính phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị L được miễn.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

406
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành vi hành chính trong quản lý Nhà nước về đất đai số 488/2022/HC-PT

Số hiệu:488/2022/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 30/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;