TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 760/2023/HC-PT NGÀY 29/08/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH VÀ BUỘC THỰC HIỆN HÀNH VI HÀNH CHÍNH
Ngày 29 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai, vụ án thụ lý số: 374/2023/TLPT-HC ngày 08 tháng 6 năm 2023 về “Khiếu kiện quyết định hành chính và buộc thực hiện hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về đất đai”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 12/2023/HC-ST ngày 09 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1742/2023/QĐ-PT ngày 10 tháng 7 năm 2023; Quyết định hoãn phiên tòa số: 135/2023/QĐ-PT ngày 25 tháng 7 năm 2023 và Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số:
1966/2023/QĐ-PT ngày 07 tháng 8 năm 2023; giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Bà Ngô Thị Thoại X, sinh năm 1937 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số 327, đường N, khu phố Q, phường K, thành phố T, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện:
+ Bà Lê Thị H, sinh năm 1957 (Theo Văn bản ủy quyền ngày 05 tháng 01 năm 2022) (có mặt);
Địa chỉ: số 298/1 đường N, khu phố Q, phường K, thành phố T, tỉnh Long An.
+ Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1963 (Theo Văn bản ủy quyền ngày 25 tháng 7 năm 2023) (có mặt);
Địa chỉ: Số 1/55B đường V, thị trấn T2, huyện T2, tỉnh Long An.
2. Người bị kiện:
2.1. Ủy ban nhân dân tỉnh L;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn X1– Chủ tịch (vắng mặt);
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Lê Thành Đ– Phó Giám đốc Văn phòng Đăng ký đất đai thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L(có mặt).
2.2. Ủy ban nhân dân phường K, thành phố T, tỉnh Long An;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Võ Hoàng T3– Chủ tịch (xin vắng mặt). tỉnh L 3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Sở Tài nguyên và Môi trường Người đại diện theo pháp luật: Ông Võ Minh T4– Giám đốc (vắng mặt);
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Lê Thành Đ– Phó Giám đốc Văn phòng Đăng ký đất đai thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L(có mặt).
- Người kháng cáo: Bà Ngô Thị Thoại X là người khởi kiện.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ghi ngày 16/5/2021, đơn kiện bổ sung 14/02/2022 của bà Ngô Thị Thoại X và thông qua người đại diện theo ủy quyền trình bày:
Ngày 24/9/1996, Chủ tịch Ủy ban nhân dân (sau đây viết tắt là UBND) phường K, ông Nguyễn Hữu K1 dựa vào Quyết định số 1564/QĐ-UB của UBND tỉnh L giao đất cho UBND phường K quản lý với lý do: Đất chòi dê UBND tỉnh đã giao cho phường quản lý, bà Thoại X chiếm đất công. Sau đó có Công văn 188/CV-UBND ngày 30/9/2013 không cấp quyền sử dụng đất cho bà và Công văn số 217/CV-UBND ngày 11/11/2013 buộc bà X trả lại hiện trạng đất chòi dê, nếu không chấp hành sẽ bị xử phạt trong khi gia đình bà sử dụng đất này trên 50 năm không liên quan đến ai.
Bản án hành chính sơ thẩm số 02/2014/HC-ST ngày 01/7/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An căn cứ Quyết định số 1564/QĐ- UBND của UBND tỉnh L bác đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà X.
Bản án hành chính phúc thẩm số 67/2014/HC-PT ngày 11/9/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm.
Cả hai bản án đều căn cứ Quyết định số 1564/QĐ-UBND của UBND tỉnh L do UBND phường K cung cấp để không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà X.
Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã có Quyết định giám đốc thẩm số 13/2019/HC-GĐT ngày 08/5/2019 hủy bỏ cả hai bản án sơ và phúc thẩm. Vì thế việc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho UBND phường K là trái pháp luật.
Tại Bản án hành chính phúc thẩm số 25/2012/HC-PT ngày 14/11/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã quyết định: thửa đất chòi dê là thửa đất của gia đình bà, không phải là đất công. Thửa đất này theo bằng khoán gốc là 119 sau đó thành 254 rồi 249 và hiện nay là 446.
Quyết định giám đốc thẩm số 13/2019/HC-GĐT ngày 08/5/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh nhận định Bản án hành chính phúc thẩm số 25/2012/HC-PT ngày 14/11/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã có hiệu lực pháp luật.
Với quyết định của hai bản án trên khẳng định chủ quyền đất chòi dê là của bà. Buộc các cấp chính quyền nghiêm chỉnh chấp hành.
Trên cơ sở quyết định của các bản án như trên, bà Thoại X làm hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật nhưng UBND phường K không giải quyết.
Năm 2012, khi Tòa án giải quyết đất chòi dê là của bà X, bà X vẫn sử dụng, không có quyết định thu hồi đất. Năm 2016, UBND phường làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng không công bố trên phương tiện thông tin đại chúng, không ký giáp ranh với thửa 119. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Lvà UBND tỉnh L đều vi phạm pháp luật trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Quyết định số 1564/QĐUB ngày 24/9/1996 của UBND tỉnh L không liên quan đến đất của bà X. Theo quyết định giao cho UBND phường 3.679,62m2, TBĐ số 01, thửa 361, 381 theo tờ trình 67/UB/TT ngày 03/5/1996 của UBND phường K không phải đất bà X. Tại Điều 2 của quyết định: UBND phường K quản lý phải cắm cột mốc rõ ràng nhưng từ đó đến nay hơn 20 năm, Ủy ban phường chưa cắm cột mốc trên đất bà X quản lý sử dụng, chưa có quyết định thu hồi đất chòi dê bà X sử dụng.
Việc bà X kiện tranh chấp cùng UBND phường K kéo dài hơn 03 năm nhưng UBND phường chưa bao giờ đem quyết định 1564 của UBND tỉnh ra để chứng minh.
Bà Thoại X khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên hủy Quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CD 837886 số vào sổ CT 29211 do Chủ tịch UBND tỉnh L cấp thửa 446, TBĐ số 16, diện tích 212m2 cho UBND phường K ngày 04/8/2016.
Buộc UBND phường K lập hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để có đủ điều kiện được UBND thành phố T cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Thoại X.
Người bị kiện UBND tỉnh L có ý kiến tại Văn bản số 5926/UBND-NCTCD ngày 01/7/2022:
Về yêu cầu khởi kiện của bà Thoại X hủy Quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CD 837886 số vào sổ CT 29211 do Chủ tịch UBND tỉnh L cấp thửa 446, TBĐ số 16, diện tích 212m2 cho UBND phường K ngày 04/8/2016.
Về việc tham gia tố tụng, đề nghị TAND các cấp cho phép Chủ tịch UBND tỉnh vắng mặt trong suốt quá trình tham gia tố tụng.
Việc cử người tham gia tố tụng, Chủ tịch UBND tỉnh cử ông Hồ Hoài V1 – Phó Giám đốc Văn phòng Đăng ký đất đai thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho UBND tỉnh.
Về nội dung, Ngày 24/9/1996, Chủ tịch UBND tỉnh L ban hành Quyết định số 1564/QĐ-UB về việc giao đất cho UBND phường K với diện tích 3.679,62m2 tại xã K, thị xã T (nay là Thành phố T) để sử dụng vào mục đích làm trụ sở xã – nay là phường K.
UBND phường K đã đo vẽ lại hiện trạng khu đất diện tích 212m2, một phần thửa đất số 249 (thửa mới 446) TBĐ số 1-9, diện tích giảm 3.467,62m2 - do đã giao cho Trường tiểu học K, Bưu điện văn hóa phường K và Đình K, theo Bản tường trình ngày 16/11/2015 của UBND phường K.
Ngày 25/12/2015, UBND phường K có Đơn đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất và Đơn đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Hồ sơ do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L thụ lý. Xét thấy hồ sơ đầy đủ, hợp lệ, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L trình UBND tỉnh ban hành Quyết định số 3100/QĐ-UBND ngày 27/7/2016 điều chỉnh diện tích đất UBND xã K tại Điều 1 Quyết định số 1564/QĐ-UBND ngày 24/9/1996 của UBND tỉnh Long An.
Việc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L thừa ủy quyền của Chủ tịch UBND tỉnh cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho UBND phường K số phát hành CĐ 837886 số vào sổ CT 29211 ngày 04/8/2016 là đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục theo quy định.
Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Long An giải quyết bác yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị Thoại X.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 12/2023/HC-ST ngày 09/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị Thoại X đối với Ủy ban nhân dân tỉnh L về việc “yêu cầu hủy quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về đất đai”.
1.1. Giữ nguyên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CD 837886 số vào sổ CT 29211 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L thừa ủy quyền của Chủ tịch UBND tỉnh L cấp thửa 446, TBĐ số 16, diện tích 212m2 cho UBND phường K ngày 04/8/2016.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị Thoại X đối với Ủy ban nhân dân phường K, thành phố T, tỉnh Long An về việc “yêu cầu thực hiện hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về đất đai”.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 28/3/2023 Tòa án nhân dân tỉnh Long An nhận đơn kháng cáo của người khởi kiện bà Ngô Thị Thoại X và bà Lê Thị H đại diện cho bà Thoại X ghi ngày 20/3/2023 kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm đề nghị sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Thoại X.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bà H đại diện cho bà Ngô Thị Thoại X vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Người khởi kiện vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện trình bày:
Bà Thoại X sử dụng đất có bằng khoán. Diện tích 212m2 là của bà X. Bà X được hưởng thừa kế đất. Từ năm 1971 đến nay, bà X sử dụng ổn định trên đất, không có tranh chấp. Căn cứ gì UBND tỉnh giao đất cho UBND xã quản lý. Bà X xây dựng hàng rào, cây trồng trên đất. Nhà nước không có quản lý trên đất tranh chấp này. UBND tỉnh không có quyết định thu hồi đất, chưa thu hồi đất mà cấp giấy cho UBND xã là sai, giao quản lý thửa 361, 381, không có thửa 424 và 249. Bằng khoán 119 của bà X. Diện tích 212m2 là của bằng khoán 119 của bà X. Địa phương tự đo đạc, tạo dựng bản vẽ. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận khởi kiện của bà X.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho UBND tỉnh và Sở Tài nguyên và Môi trường trình bày: Hồ sơ lưu trữ thể hiện diện tích 212m2 là đất công UBND tỉnh đã giao cho UBND phường K quản lý. UBND phường K đã xử phạt vi phạm hành chính. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thực hiện đúng quy định của Luật đất đai. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên án sơ thẩm, bác yêu cầu của người khởi kiện.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện trình bày: Căn cứ xác định đất công. Đất này không nằm trong các quy định của đất công như nhà nước trưng thu, trưng mua… Gia đình bà X sử dụng. Án xử trước đây đã hủy bỏ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính, đất của bà X sử dụng ổn định từ năm 1973 đến nay. Xác định đất công không có căn cứ.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật; các đương sự tham gia tố tụng chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Về nội dung: Xét kháng cáo của bà Ngô Thị Thoại X.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp cho UBND phường K thửa đất được cấp là thửa số 249 (thửa mới 446) TBĐ số 1-9, diện tích 212m2. Sau khi kiểm tra thẩm định, đo đạc lại và đối chiếu các trích đo địa chính vị trí khu đất diện tích 212m2 thửa số 249 (thửa mới 446) TBĐ số 1-9, đất “chòi dê” vẫn không thay đổi hiện trạng và vị trí. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho UBND phường K không nằm ngoài diện tích 3.679,62m2 mà Chủ tịch UBND tỉnh L đã giao cho UBND xã K, thị xã T (Nay là phường K, thành phố T). Người khởi kiện trình bày thửa đất số 249 (đất chòi dê) bà Thoại X vẫn đang quản lý, sử dụng chưa bị thu hồi nhưng diện tích đất này đã được giao cho UBND phường K từ năm 1996. Người đại diện và người bảo vệ của bà Thoại X trình bày phần đất “chòi dê” không nằm trong phần diện tích đất thu hồi theo Quyết định số 1564/QĐ-UBND ngày 24/9/1996 của Chủ tịch UBND tỉnh L, nhưng không cung cấp được chứng cứ tài liệu gì khác chứng minh. Cho dù bà Thoại X có quản lý, sử dụng đất chòi dê nhưng không có căn cứ pháp luật. Án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện là có căn cứ. Bà Thoại X kháng cáo không đưa ra tài liệu chứng cứ làm thay đổi nội dung vụ án. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà Thoại X, giữ nguyên án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ ý kiến của các bên đương sự và quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về quan hệ pháp luật, thời hiệu khởi kiện:
Ngày 04/8/2016, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L thừa ủy quyền của Chủ tịch UBND tỉnh cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho UBND phường K số phát hành CĐ 837886 số vào sổ CT 29211 đối với thửa 446, TBĐ số 16, diện tích 212m2. Phía UBND các cấp không cung cấp được chứng cứ chứng minh bà Thoại X biết được việc cấp đất này trong khi bà Thoại X trình bày Tòa án nhân dân thành phố T mời bà Thoại X đến, bà Thoại X mới biết. Ngày 21/9/2020, bà Thoại X rút đơn kiện tại Tòa án nhân dân thành phố T.
Ngày 24/5/2021, bà Thoại X nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân tỉnh Long An yêu cầu hủy quyết định giao đất và buộc thực hiện hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Theo quy định tại Điều 116; Điều 30 và Điều 32 Luật Tố tụng hành chính, thời hiệu khởi kiện vẫn còn và Tòa án nhân dân tỉnh Long An thụ lý và giải quyết là đúng thẩm quyền.
[2] Xét kháng cáo của bà Thoại X, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[2.1] Ngày 24/9/1996, Chủ tịch UBND tỉnh L ban hành Quyết định số 1564/QĐ-UBND về việc giao đất cho UBND phường K với diện tích 3.679,62m2 tại xã K, thị xã T (nay là Thành phố T) để sử dụng vào mục đích làm trụ sở xã K – nay là phường K. Vị trí đất do Sở Địa chính (nay là Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L) lập ngày 16/01/1996 và ngày 11/4/1996.
[2.2] Căn cứ vào Trích đo bản đồ địa chính ngày 06/7/2009 của Phòng Tài nguyên và Môi trường thị xã T; sơ đồ hiện trạng vị trí ngày 11/4/1996 của Sở Địa chính tỉnh L thì thửa 249 (đất chòi dê) nằm trong diện tích 3.679,62m2 Chủ tịch UBND tỉnh L đã cho UBND phường K theo Quyết định số 1564/QĐ- UBND ngày 06/7/2009.
[2.3] Quyết định số 1564/QĐ-UBND ngày 06/7/2009 của Chủ tịch UBND tỉnh L không bị khiếu nại hay khởi kiện theo thủ tục hành chính đến nay quyết định này đang có hiệu lực pháp luật.
[2.4] Ngày 25/12/2015, UBND phường K có đơn đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất và Đơn đăng ký cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
[2.5] Ngày 04/8/2016, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L thừa ủy quyền của UBND tỉnh L cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của số phát hành CĐ 837886 số vào sổ CT 29211 đối với thửa 446, TBĐ số 16, diện tích 212m2 cấp cho UBND phường K.
[2.6] Quyết định giám đốc thẩm số 13/2019/HC-GĐT ngày 08/5/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã hủy toàn bộ Bản án hành chính phúc thẩm số 67/2014/HC-PT ngày 11/9/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An và Bản án sơ thẩm số 02/2014/HC-ST ngày 01/7/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Tân An, tỉnh Long An giải quyết lại theo đúng quy định pháp luật. Trong Quyết định giám đốc thẩm trên có nhận định lý do hủy vì căn cứ bản vẽ hiện trạng vị trí đất do Sở Địa chính lập ngày 16/01/1996 và ngày 11/4/1996 thì chưa thể xác định phần đất chòi dê thuộc thửa 249 mà bà X xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có nằm trong diện tích 6.379,62m2. Quá trình giải quyết, Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa điều tra xác minh làm rõ phần đất chòi dê thuộc thửa 249 có nằm trong diện tích 6.379,62m2 mà UBND tỉnh L đã giao cho UBND phường K quản lý hay không? Việc bác yêu cầu khởi kiện của bà X chưa đủ cơ sở vững chắc.
[2.7] Căn cứ vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp cho UBND phường K thửa đất được cấp là thửa số 249 (thửa mới 446) TBĐ số 1-9, diện tích 212m2.
Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã tiến hành thẩm định tại chỗ phần đất tranh chấp. Sau khi kiểm tra thẩm định, đo đạc lại và đối chiếu các trích đo địa chính vị trí khu đất diện tích 212m2 thửa số 249 (thửa mới 446) TBĐ số 1-9, đất “chòi dê” vẫn không thay đổi hiện trạng và vị trí.
[2.8] Phía người khởi kiện trình bày thửa đất số 249 (đất chòi dê) bà Thoại X vẫn đang quản lý, sử dụng chưa bị thu hồi nhưng diện tích đất này đã được giao cho UBND phường K từ năm 1996. Người đại diện và người bảo vệ của bà Thoại X trình bày phần đất “chòi dê” không nằm trong phần diện tích đất thu hồi theo Quyết định số 1564/QĐ-UBND ngày 24/9/1996 của Chủ tịch UBND tỉnh L, nhưng không cung cấp được chứng cứ tài liệu gì khác chứng minh. Cho dù bà Thoại X có quản lý, sử dụng đất chòi dê nhưng không có căn cứ pháp luật vì đất này đã giao cho UBND phường.
[2.9] Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho UBND phường K không nằm ngoài diện tích 3.679,62m2 mà Chủ tịch UBND tỉnh L đã giao cho UBND xã K, thị xã T (Nay là phường K, thành phố T) là có căn cứ.
[2.10] Do yêu cầu khởi kiện hủy giấy chứng nhận của bà Thoại X không có cơ sở nên yêu cầu của bà Ngô Thị Thoại X buộc UBND phường K thực hiện hành vi làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thửa 446 cho bà Thoại X cũng không có căn cứ.
[2.11] Các nội dung khác giữ nguyên như án sơ thẩm.
[3] Từ những phân tích và nhận định nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đúng pháp luật. Bà Thoại X kháng cáo không đưa ra được chứng cứ để làm thay đổi nội dung vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà Thoại X, ý kiến của người bảo vệ cho bà X, giữ nguyên án sơ thẩm như đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị và ý kiến của người bảo vệ cho UBND tỉnh L và Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L.
[4] Về án phí hành chính phúc thẩm: Bà Thoại X là người cao tuổi nên được miễn án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 30; 32; 116; Điều 193; khoản 1 Điều 241; Điều 348 và Điều 349 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án;
Không chấp nhận kháng cáo của bà Ngô Thị Thoại X. Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 12/2023/HC-ST ngày 09/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An, cụ thể như sau:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị Thoại X đối với Ủy ban nhân dân tỉnh L về việc “yêu cầu hủy quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về đất đai”.
1.1. Giữ nguyên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CD 837886 số vào sổ CT 29211 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L thừa ủy quyền của Chủ tịch UBND tỉnh L cấp thửa 446, TBĐ số 16, diện tích 212m2 cho UBND phường K ngày 04/8/2016.
1.2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị Thoại X đối với Ủy ban nhân dân phường K, thành phố T, tỉnh Long An về việc “yêu cầu thực hiện hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về đất đai”.
2. Về án phí hành chính sơ thẩm và án phí hành chính phúc thẩm: bà Ngô Thị Thoại X được miễn án phí.
3. Về chi phí tố tụng: 10.600.000 đồng bà Ngô Thị Thoại X phải chịu, đã nộp xong.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 760/2023/HC-PT về khiếu kiện quyết định hành chính và buộc thực hiện hành vi hành chính
Số hiệu: | 760/2023/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 29/08/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về