TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 166/2022/HC-PT NGÀY 14/03/2022 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Ngày 14 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai, vụ án thụ lý số: 581/2021/TLPT-HC ngày 06 tháng 12 năm 2021 về “Khiếu kiện Quyết định hành chính trong quản lý nhà nước về đất đai”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 39/2021/HC-ST ngày 06 tháng 9 năm 2021 của Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 38/2022/QĐ-PT ngày 20 tháng 01 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số số 21/2022/QĐ-PT ngày 17 tháng 02 năm 2022 và Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 108/2022/QĐ-PT ngày 17 tháng 02 năm 2022 giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Bà Vũ Thị T, sinh năm 1964 (có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Thôn 10B, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng.
- Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Lâm Đồng Địa chỉ: Số 9, đường N, thị trấn L1, huyện B, tỉnh Lâm Đồng.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Ngọc N1, chức vụ: Chủ tịch
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Trung T1, chức vụ: Phó chủ tịch (theo văn bản ủy quyền số 1027/GUQ ngày 20-5-2021) (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Trần Văn L2, sinh năm 1963 (có mặt)
2. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1968 (có mặt) Địa chỉ: 157/8 đường H1, Phường 1, thành phố B1, tỉnh Lâm Đồng
3. Ông Nguyễn Ngọc C(chết ngày 26/8/2021)
4. Bà Nguyễn Thị Xuân N2, sinh năm 1973 (có mặt) Địa chỉ: Thôn 10B, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng.
5. Bà Giả Thị Lệ H2, sinh năm 1979 (có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Thôn 10B, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng.
6. Ông Nguyễn Văn C1, sinh năm 1956 (có đơn xin xét xử vắng mặt)
7. Bà Phạm Thị M, sinh năm 1957 (có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Thôn 9, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng.
- Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Xuân N2, ông Trần Văn L2 và bà Nguyễn Thị H là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ghi ngày 07-03-2021, đơn khởi kiện bổ sung ngày 17- 3-2021 và bản tự khai của người khởi kiện bà Vũ Thị T trình bày:
Bà T nhận canh tác một lô đất tại Thôn 10B, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng từ vợ chồng ông C, bà N2 do giao để cấn trừ nợ từ ngày 01-4-2019 đến nay không tranh chấp với ai, lô đất này liền kề với đất của vợ chồng ông L2, bà H (nhận chuyển nhượng từ ông Nguyễn Như H3 năm 2004).
Tháng 12 năm 2019, đoàn đo đạc đất của tỉnh Lâm Đồng về địa bàn xã L đo đạc lại tổng thể hiện trạng sử dụng đất. Lô đất Bà T đang sử dụng có diện tích là 4.045m2 thuộc thửa 92, tờ bản đồ 66 nhưng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sau đây gọi tắt là GCNQSDĐ) lại mang tên ông Nguyễn Như H3, chuyển nhượng cho vợ chồng ông L2, bà H ngày 10-9-2004.
Do vậy, bà T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết hủy GCNQSDĐ số Đ 708351 do Ủy ban nhân dân (sau đây gọi tắt là UBND) huyện B cấp cho ông Nguyễn Như H3 vào ngày 30-7-2004, thửa 271, diện tích 3.140m2, tờ bản đồ 56, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng, đã đăng ký biến động tại trang tư cho vợ chồng ông Trần Văn L2, bà Nguyễn Thị H vào ngày 10-9-2004.
Đại diện theo ủy quyền của người bị kiện UBND huyện B trình bày:
Qua kiểm tra, rà soát hồ sơ, tài liệu lưu trữ trước đây thì việc UBND huyện B ban hành GCNQSDĐ số hiệu Đ 708351 cấp cho ông Nguyễn Như H3 vào ngày 30/07/2004 là căn cứ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất là ông Nguyễn Tấn C2 và bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất là ông Nguyễn Như H3 đối với thửa đất số 271 (được tách từ thửa gốc số 129), tờ bản đồ số 56, xã L, huyện B, đã được UBND xã L chứng thực ngày 21/05/2004; Phòng nông nghiệp địa chính xác nhận ngày 11/06/2004; UBND huyện B thống nhất ngày 17/06/2004.
Sau đó đăng ký biến động tại trang 4 GCNQSDĐ cho vợ chồng ông Trần Văn L2, bà Nguyễn Thị H là căn cứ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất là ông Nguyễn Như H3 và bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất là vợ chồng ông Trần Văn L2, bà Nguyễn Thị H đối với thửa đất số 271 (được tách từ thửa gốc số 129), tờ bản đồ số 56, xã L đã được UBND xã L chứng thực ngày 18/08/2004; Phòng nông nghiệp địa chính xác nhận ngày 01/09/2004; UBND huyện B thống nhất ngày 10/9/2004.
Việc cấp GCNQSDĐ số Đ 708351 cho ông Nguyễn Như H3 vào ngày 30/07/2004 và đăng ký biến động tại trang 4 GCNQSDĐ cho vợ chồng ông Trần Văn L2, bà Nguyễn Thị H là đúng theo quy định và trình tự thủ tục của pháp luật.
Việc người khởi kiện yêu cầu hủy GCNQSDĐ số Đ 708351 cấp cho ông Nguyễn Như H3 vào ngày 30/07/2004 và đăng ký biến động tại trang 4 GCNQSDĐ cho vợ chồng ông Trần Văn L2, bà Nguyễn Thị H: đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng căn cứ quy định của pháp luật và chứng cứ, hồ sơ vụ việc để quyết định giải quyết cho phù hợp và theo quy định pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Giả Thị Lệ H2 trình bày:
Thửa đất 271, tờ bản đồ 56, diện tích 3.140m2 tại xã L, huyện B liền kề với đất bà H2mua của ông Nguyễn Ngọc C, bà Nguyễn Thị Xuân N2. Trước đó ông C có giao lại cho bà H2 quản lý và buộc bà phải trả nợ thay cho ông số nợ mà ông nợ bà T. Tuy nhiên, bà H2 không có tiền trả nên giao trả lại đất cho ông tự cấn trừ nợ với bà T.
Lô đất bà T hiện đang quản lý nằm giữa lô đất của bà H2 và vợ chồng ông L2, bà H, không có xảy ra tranh chấp với nhau, đất ai người đó canh tác. Với yêu cầu khởi kiện của bà T, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Ngọc C, bà Nguyễn Thị Xuân N2 trình bày:
Thửa đất 271, tờ bản đồ 56, diện tích 3.140m2 tại xã L là của vợ chồng ông bà khai phá nhưng bị hộ liền kề là ông Nguyễn Như H3 kê khai cấp nhầm lên đất của ông C, bà N2. Sau đó ông H3 chuyển nhượng cho vợ chồng ông L2, bà H. Quá trình sử dụng đất giữa hai hộ không xảy ra tranh chấp, đất ai người đó canh tác. Đến năm 2019, ông bà bàn giao đất cho bà T để cấn trừ nợ, ông bà không tranh chấp với bà T, đồng ý giao đất cho bà T.
Với yêu cầu khởi kiện của bà T, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn L2, bà Nguyễn Thị H trình bày:
Vào năm 2004, vợ chồng ông bà nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông H3, bà X thửa đất 271, tờ bản đồ số 56, xã L, huyện B có diện tích 3.140m2, có làm hợp đồng chuyển nhượng và sang tên tại trang 4 GCNQSDĐ số hiệu Đ 708531 cấp ngày 30/7/2004 cho ông Nguyễn Như H3. Vợ chồng ông bà đã sử dụng ổn định từ đó cho đến nay, không xảy ra tranh chấp với ai. Hiện nay, bản chính GCNQSDĐ ông bà đang giữ.
Với yêu cầu khởi kiện của bà T, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập ông Nguyễn Văn C1, bà Phạm Thị M trình bày:
Ông C1, bà M là người được thi hành án theo Bản án số 95/2015/DS-ST ngày 13/8/2015 của Tòa án nhân dân huyện B, người phải thi hành án là ông Nguyễn Ngọc C, bà Nguyễn Thị Xuân N2. Ông bà đã làm đơn yêu cầu thi hành án bản án trên thì được Chi cục Thi hành án dân sự huyện B ban hành Quyết định thi hành án số 03/QĐ-CCTHADS ngày 05/10/2015. Trong quá trình kê biên tài sản của ông Nguyễn Ngọc C, bà Nguyễn Thị Xuân N2 trong đó có kê biên thửa đất số 271, tờ bản đồ số 56, diện tích 3.140m2, địa chỉ: Thôn 10B, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng. Tuy nhiên, khi Chi cục Thi hành án dân sự huyện B tiến hành xác minh tài sản thì thửa đất trên đã được cấp cho ông Nguyễn Như H3 theo GCNQSDĐ số Đ 708351 ngày 30/07/2004, ông Nguyễn Như H3 chuyển nhượng cho vợ chồng ông L2, bà H theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 1015/CN ngày 10/09/2004 của UBND xã L, huyện B. Ông bà đã làm đơn yêu cầu UBND huyện B hủy GCNQSDĐ số Đ 708351 do cấp không đúng đối tượng và UBND huyện B đã trả lời bằng Văn bản số 296/UBND ngày 29/01/2021 về việc trả lời đơn của công dân thì UBND huyện B cũng khẳng định việc cấp GCNQSDĐ số Đ 708351 là không đúng đối tượng, nhưng vì người được cấp GCNQSDĐ đã chuyển nhượng cho người khác nên UBND huyện B không có cơ sở để thu hồi.
Nay ông bà yêu cầu Tòa án giải quyết hủy GCNQSDĐ số Đ 708351 do UBND huyện B cấp ngày 30/07/2004 cho ông Nguyễn Như H3, đã đăng ký biến động sang tên cho ông L2, bà H đối với thửa đất số 271, tờ bản đồ số 56, diện tích 3.140m2, địa chỉ: Thôn 10B, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 39/2021/HC-ST ngày 06/9/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị T; yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn C1, bà Phạm Thị M về việc “Khiếu kiện Quyết định hành chính trong quản lý nhà nước về đất đai”.
Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ 708351 do UBND huyện B cấp ngày 30/07/2004 cho ông Nguyễn Như H3, đã đăng ký biến động sang tên cho ông L2, bà H đối với thửa đất số 271, tờ bản đồ số 56, diện tích 3.140m2, địa chỉ: Thôn 10B, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng.
2. Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, ông L2, bà H liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền kê khai đăng ký để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng hiện trạng sử dụng theo quy định pháp luật về đất đai.
Đối với các giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án nếu có tranh chấp do các bên tự thỏa thuận giải quyết; trường hợp không thỏa thuận được thì có quyền khởi kiện vụ án dân sự theo thủ tục chung.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 13/9/2021 Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng nhận đơn kháng cáo của ông Trần Văn L2, bà Nguyễn Thị H ghi ngày 09/9/2021 kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm;
Ngày 22/10/2021 Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng nhận đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị Xuân N2 ghi ngày 11/10/2021 kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm;
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Trần Văn L2, bà Nguyễn Thị H và bà Nguyễn Thị Xuân N2 vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, với nội dung đề nghị hủy án sơ thẩm, giao hồ sơ về Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại; người khởi kiện vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật; các đương sự tham gia tố tụng chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về thủ tục: Án sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Ông C đã chết ngày 26/8/2021. Bản án sơ thẩm xét xử vào ngày 06/9/2021. Ông C chết trước khi Tòa án cấp sơ thẩm xét xử. Nội dung bản án lại ghi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông C trình bày vụ kiện. Việc tham gia tố tụng của ông C không có căn cứ. Phiên tòa sơ thẩm vi phạm thủ tục tố tụng, không đưa người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông C tham gia tố tụng. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn L2, bà Nguyễn Thị H và bà Nguyễn Thị Xuân N2, hủy án sơ thẩm, giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ ý kiến của các bên đương sự và quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về quan hệ pháp luật, thời hiệu khởi kiện:
Bà Vũ Thị T nhận một lô đất tại thôn 10B, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng để cấn trừ nợ từ ngày 01-4-2019. Đến tháng 12-2020 bà T mới biết diện tích đất này đã được cấp GCNQSDĐ số Đ 708351 do UBND huyện B cấp ngày 30-07- 2004 cho ông Nguyễn Như H3, đối với thửa đất số 271, tờ bản đồ số 56, diện tích 3.140m2, địa chỉ: Thôn 10B, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng, đã đăng ký biến động sang tên cho ông L2, bà H vào năm 2004. Ngày 07-5-2021 bà T nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết hủy GCNQSDĐ nêu trên.
Ông Nguyễn Văn C1, bà Phạm Thị M là những người được thi hành án theo Bản án số 95/2015/DS-ST ngày 13/8/2015 của Tòa án nhân dân huyện B, người phải thi hành án là ông Nguyễn Ngọc C, bà Nguyễn Thị Xuân N2. Trong quá trình kê biên tài sản của ông C, bà N2 có kê biên thửa đất 271, tờ bản đồ 56, xã L, huyện B. Tuy nhiên, khi tiến hành xác minh tài sản thì ông C1, bà M được biết diện tích này đã cấp GCNQSDĐ số Đ 708351 do UBND huyện B cấp ngày 30/07/2004 cho ông Nguyễn Như H3, đã đăng ký biến động sang tên cho ông L2 và bà H năm 2004 nên ông C1, bà M có đơn yêu cầu Tòa án hủy GCNQSDĐ nêu trên.
Theo quy định tại Điều 116; Điều 30 và Điều 32 Luật Tố tụng hành chính, thời hiệu khởi kiện vẫn còn và Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng thụ lý và giải quyết là đúng thẩm quyền.
[2] Xét kháng cáo của ông Trần Văn L2, bà Nguyễn Thị H và bà Nguyễn Thị Xuân N2, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[2.1] Ông Nguyễn Ngọc C là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã chết ngày 26/8/2021. Vào ngày 06/9/2021 Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử thì ông C đã chết nhưng Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng không biết và không đưa người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông C vào tham gia tố tụng là không đúng quy định, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
[2.2] Do Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử không đúng pháp luật, có vi phạm về tố tụng nên Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét nội dung. Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của ông L2, bà H và bà N2, hủy án sơ thẩm giao hồ sơ về Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại như đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị.
[3] Về án phí hành chính phúc thẩm: Do hủy án nên các đương sự không phải chịu án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 30, 32, 116; Điều 193, khoản 3 Điều 241; Điều 348 và Điều 349 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015;
Căn cứ Luật Đất đai năm 2003; sửa đổi, bổ sung năm 2009; Luật Đất đai năm 2013 và các Nghị định hướng dẫn thi hành;
Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008; được sửa đổi, bổ sung năm 2014;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn L2, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị Xuân N2. Hủy Bản án hành chính sơ thẩm số 39/2021/HC-ST ngày 06/9/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng.
Giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
Về án phí hành chính phúc thẩm: Các đương sự không phải chịu.
Hoàn lại cho ông Trần Văn L2 và bà Nguyễn Thị H mỗi người số tiền 300.000 đồng đã nộp theo các Biên lai thu số 0007434 và 0007435 ngày 20/9/2021; bà Nguyễn Thị Xuân N2 số tiền 300.000 đồng đã nộp theo Biên lai thu số 0008769 ngày 05/11/2021 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Lâm Đồng.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong quản lý đất đai số 166/2022/HC-PT
Số hiệu: | 166/2022/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 14/03/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về