TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 283/2022/HC-PT NGÀY 22/04/2022 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI THU HỒI ĐẤT, BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ
Ngày 22 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 384/2021/HCPT ngày 08/7/2021 về “Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư”. Do Bản án hành chính sơ thẩm số 13/2021/HC-ST ngày 29/4/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 391/2022/QĐ-PT ngày 31/3/2022 giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Ông Hoàng Ngọc M, sinh năm 1950; địa chỉ: Huyện B, tỉnh Bình Dương. (có mặt) Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1955; địa chỉ: Huyện B, tỉnh Bình Dương là người đại diện theo ủy quyền. (có mặt) Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của ông M: Ông Nguyễn Cảnh N là Luật sư của Văn phòng luật sư NCN thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. (vắng mặt, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt)
2. Người bị kiện:
2.1 Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Bình Dương; địa chỉ: thị trấn L, huyện B, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của người bị kiện: Ông Nguyễn Văn T, chức vụ: Phó Chủ tịch UBND huyện B là người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền số 95/UQ-UBND ngày 19/10/2020). (vắng mặt, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt) 2.2 Ủy ban nhân dân tỉnh B; địa chỉ: Phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của người bị kiện: Ông Mai Hùng D, chức vụ: Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương là người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền số 5770/UBND-KT ngày 24/11/2020). (vắng mặt, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt)
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1955; địa chỉ: Huyện B, tỉnh Bình Dương.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bà K: Ông Nguyễn Cảnh N là Luật sư của Văn phòng luật sư NCN thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. (vắng mặt, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt)
4. Người kháng cáo: Người khởi kiện ông Hoàng Ngọc M, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị K.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ, bản án sơ thẩm và lời khai của các bên tham gia vụ kiện tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ông Hoàng Ngọc M và gia đình đã sử dụng đất tại ấp 6, xã Hưng Hòa, huyện B từ trước năm 1991, gia đình ông M đã xây dựng nhà ở và các công trình phụ trên đất và thực hiện đóng thuế đất cho Nhà nước từ năm 1991. Năm 1993, Chi cục thuế huyện (nay là thị xã) Bến Cát tiến hành đo đất và thu thuế nhà đất của gia đình ông M. Như vậy, gia đình ông M đã sử dụng ổn định từ trước ngày 15/10/1993. Tuy nhiên, ngày 24/01/2017, Ủy ban nhân dân (viết tắt UBND) tỉnh Bình Dương ban hành Quyết định số 167/QĐ-UBND thu hồi khu đất 59.291,3m2 tại xã Hưng Hòa để xây dựng Trung tâm Văn hóa-Thể thao và Trường Mầm non xã Hưng Hòa.
Ngày 18/01/2019, UBND tỉnh Bình Dương ban hành Quyết định số 161/QĐ-UBND thay đổi diện tích đất thu hồi từ 59.291,3m2 lên 60.602,9m2, tại xã Hòa Hưng; trong đó có thửa đất số 91 của hộ gia đình ông M đang quản lý sử dụng. Ông Hoàng Ngọc M chỉ nhận được Quyết định số 1585/QĐ-UBND ngày 04/9/2019 của UBND huyện B về việc phê duyệt phương án hỗ trợ về đất và tài sản gắn liền với đất. Ngày 02/01/2020, ông M Mới nhận được quyết định thu hồi đất; việc thu hồi đất của UBND tỉnh Bình Dương và UBND huyện B là trái pháp luật. Do đó, bà K đại diện ông M thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện ban đầu như sau:
- Hủy một phần Quyết định số 167/QĐ-UBND ngày 24/01/2017 của UBND tỉnh Bình Dương về việc thu hồi một phần thửa đất số 91, tờ bản đồ số 13, diện tích đất 4.901.3m2 của ông Hoàng Ngọc M đang sử dụng tại xã Hưng Hòa, huyện B, tỉnh Bình Dương.
- Hủy một phần Quyết định số 161/QĐ-UBND ngày 18/01/2019 của UBND tỉnh Bình Dương về việc điều chỉnh thu hồi một phần thửa đất số 91, tờ bản đồ số 13, diện tích đất 4.901.3m2 của ông Hoàng Ngọc M đang sử dụng tại xã Hưng Hòa, huyện B, tỉnh Bình Dương.
- Hủy một phần Quyết định thu hồi số 1585/QĐ-UBND ngày 04/9/2019 của UBND huyện B về việc phê duyệt phương án hỗ trợ đất và tài sản trên đất.
- Hủy một phần phương án hỗ trợ đất, tài sản gắn liền với đất và hủy bảng áp giá hỗ trợ về đất và tài sản gắn liền với thửa đất số 91, tờ bản đồ số 13, tại xã Hưng Hòa, huyện B và yêu cầu Tòa án tuyên bố ông Hoàng Ngọc M đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 4.901.3m2, tại thửa số 91, tờ bản đồ số 13, tại xã Hưng Hòa, huyện B, tỉnh Bình Dương.
Tại bản tường trình của người đại diện hợp pháp của người bị kiện, Chủ tịch UBND huyện B trình bày:
- Ngày 23/12/2015, UBND tỉnh Bình Dương ban hành Công văn số 4595/UBND-KTN về việc giao đất xây dựng Trung tâm Văn hóa-Thể thao và Trường Mầm non xã Hưng Hòa, huyện B. Ngày 12/9/2016, UBND huyện B ban hành Kế hoạch số 94/KH-UBND về việc triển khai các bước thực hiện để giải phóng mặt bằng đối với khu đất công 59.291,3m2 tại xã Hưng Hòa. Ngày 14/10/2016, Chi nhánh Trung tâm Phát triển quỹ đất phối hợp với địa phương thực hiện đo đạc, kiểm đếm tài sản trên đất đối với thửa đất số 91, tờ bản đồ số 13 tại xã Hưng Hòa do ông Hoàng Ngọc M đang sử dụng. Ngày 15/12/2016, UBND huyện B ban hành Công văn số 3053/UBND-KT về việc hỗ trợ các hộ dân sử dụng đất thuộc khu đất công 5,9ha tại xã Hưng Hòa.
- Ngày 24/01/2017, UBND tỉnh Bình Dương ban hành Quyết định số 176/QĐ-UBND về việc thu hồi khu đất công có diện tích 59.291,3m2 do UBND xã Hưng Hòa quản lý để đầu tư xây dựng Trung tâm Văn hóa-Thể thao và Trường Mầm non. Ngày 15/02/2017, Chi nhánh Trung tâm Phát triển quỹ đất phối hợp với địa phương tổ chức họp dân thực hiện niêm yết công khai các văn bản của UBND tỉnh và UBND huyện B.
- Ngày 25/10/2018, UBND huyện B ban hành Quyết định số 2297/QĐ- UBND về việc phê duyệt chủ trương đầu tư dự án tổng thể giải phóng mặt bằng khu đất công diện tích 60.602,9m2 tại xã Hưng Hòa.
- Ngày 18/01/2019, UBND tỉnh Bình Dương ban hành Quyết định số 161/QĐ-UBND về việc điều chỉnh một số nội dung tại Quyết định số 167/QĐ- UBND ngày 24/01/2017 của UBND tỉnh Bình Dương về việc thu hồi khu đất công có diện tích 59.291,3m2 do UBND xã Hưng Hòa quản lý.
- Ngày 11/3/2019, UBND huyện B ban hành Công văn số 542/UBND-KT về việc hỗ trợ các hộ dân sử dụng đất tại khu đất công 60.602,9m2 tại xã Hưng Hòa.
- Ngày 04/9/2019, UBND huyện B ban hành Quyết định số 1585/QĐ- UBND về việc phê duyệt phương án hỗ trợ đất và tài sản trên đất Dự án tổng thể giải phóng mặt bằng khu đất công diện tích 60.602,9m2 tại xã Hưng Hòa.
- Ngày 10/9/2019, UBND huyện B ban hành Quyết định số 1628/QĐ- UBND về việc phê duyệt kinh phí hỗ trợ đất và tài sản trên đất đối với hộ ông Hoàng Ngọc M. Trong đó hỗ trợ về đất là 568.166.400 đồng; hỗ trợ về nhà ở là 31.752.000 đồng; hỗ trợ công trình phụ vật kiến trúc là 16.850.760 đồng; hỗ trợ cây trồng, vật nuôi là 130.399.000 đồng.
Do đó, UBND huyện B đề nghị Tòa án bác yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Ngọc M về việc yêu cầu hủy Quyết định thu hồi số 1585/QĐ-UBND ngày 04/9/2019 của UBND huyện B về việc phê duyệt phương án hỗ trợ đất và tài sản trên đất dự án tổng thể giải phóng mặt bằng khu đất công diện tích 60.602,9m2.
Người bị kiện UBND tỉnh Bình Dương không có văn bản trình bày và có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị K thống nhất như lời trình bày của người khởi kiện.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 13/2021/HC-ST ngày 29/4/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã tuyên xử:
1. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Ngọc M về việc yêu cầu:
- Hủy một phần Quyết định 167/QĐ-UBND ngày 24/01/2017 của UBND tỉnh Bình Dương về việc thu hồi thu hồi khu đất công có diện tích 59.291,3m2 do UBND xã Hưng Hòa quản lý để đầu tư xây dựng Trung tâm văn hóa thể thao và Trường Mầm non;
- Hủy một phần Quyết định số 161/QĐ-UBND ngày 18/01/2019 của UBND tỉnh Bình Dương về việc điều chỉnh một số nội dung tại Quyết định số 167/QĐ-UBND ngày 24/01/2017 của UBND tỉnh Bình Dương về việc thu hồi khu đất công có diện tích 59.291,3m2 do UBND xã Hưng Hòa quản lý để đầu tư xây dựng Trung tâm văn hóa thể thao và Trường Mầm non.
- Hủy một phần Quyết định số 1585/QĐ-UBND ngày 04/9/2019 của UBND huyện B về việc phê duyệt Phương án hỗ trợ đất và tài sản trên đất Dự án tổng thể giải phóng mặt bằng khu đất công diện tích 60.602,9m2 tại ấp 6, xã Hưng Hòa.
- Hủy một phần phương án hỗ trợ đất, tài sản gắn liền với đất.
- Hủy bảng áp giá hỗ trợ về đất và tài sản trên đất tại thửa đất số 91, tờ bản đồ 13, diện tích giải tỏa 4.901,3m2 tiếp giáp đường ĐT 741B.
2. Đình chỉ yêu cầu tuyên bố ông Hoàng Ngọc M đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 4.901.3m2 thuộc thửa số 91, tờ bản đồ số 13, đất tọa lạc tại xã Hưng Hòa, huyện B, tỉnh Bình Dương do không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên về tiền án phí và dành quyền kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 11/5/2021, người khởi kiện ông Hoàng Ngọc M có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm; Ngày 12/5/2021, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị K có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện ông Hoàng Ngọc M, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị K giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Người khởi kiện ông Hoàng Ngọc M đọc văn bản “Bản luận cứ” bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của luật sư Nguyễn Cảnh N, có nội dung tóm tắt như sau: về nguồn gốc đất và quá trình sử dụng đất, thửa đất số 91 do gia đình ông M quản lý, sử dụng có nguông gốc do ông M nhận chuyển nhượng của ông Đoàn Hùng Anh ngày 30/5/1991, có lập “Giấy sang nhượng” được Ban ấp 6 xã Hưng Hòa xác nhận. Hợp đồng chuyển nhượng này đã thực hiện xong không có tranh chấp, gia đình ông M quản lý, sử dụng đất ổn định, công khai, liên tục, có xây dựng nhà, trồng cây lâu năm, không bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm pháp luật về đất đai, có kê khai và đóng thuế, căn cứ Điều 100 Luật đất đai 2013, ông M đủ điều kiện để được cấp GCN QSDĐ nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét là không đúng. Về các quyết định hành chính bị kiện không có căn cứ pháp lý, sai về thẩm quyền và trình tự thủ tục ban hành. UBND huyện B và UBND tỉnh Bình Dương cho rằng thửa đất của gia đình ông M là đất công do UBND xã Hưng Hòa quản lý không đưa ra được tài liệu, chứng cứ nào chứng minh và không phù hợp với quá trình sử dụng đất thực tế. Biên bản bàn giao đất ngày 07/11/1995 giữa Công ty cao su Phước Hòa với UBND xã Hưng Hòa không phải là chứng cứ chứng minh đây là đất công do UBND xã Hưng Hòa quản lý, gia đình ông M sử dụng đất do lấn chiếm là không có cơ sở vì Biên bản này không phải quyết định giao đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bản án sơ thẩm đã tuyên đã không đánh giá toàn diện các chứng cứ và không xem xét đến quyền lợi của ông M, bà K. Từ những lập luận trên, đề nghị Hội đồng xét xử sửa toàn bộ bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện.
Bà Nguyễn Thị K trình bày: Đồng ý với ý kiến của Luật sư như trong bài bảo vệ.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm: Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử Tòa án đã tiến hành đúng quy định của pháp luật; tại phiên tòa người tham gia tố tụng chấp hành đúng quy định pháp luật tố tụng hành chính. Về nội dung vụ án: Mặc dù ông M, bà K có quá trình sử dụng đất, nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh ông, bà có quyền sử dụng đất hợp pháp đối với phần đất bị thu hồi cũng không có đăng ký kê khai phần đất này. Đây là đất công do UBND xã Hưng Hòa quản lý, người kháng cáo không cung cấp được chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của người khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong hạn luật định, hợp lệ nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Về sự có mặt của các đương sự tại phiên tòa: Xét thấy, người đại diện hợp pháp của những người bị kiện đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai, vắng mặt nhưng có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt; người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người khởi kiện và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có nộp Bản luận cứ. Căn cứ khoản 1, điểm d khoản 2 Điều 157 của Luật Tố tụng hành chính, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự nêu trên.
[2] Xét kháng cáo của ông M, bà K:
Tại phiên tòa, bà K, ông M yêu cầu Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo, sửa toàn bộ bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện, hủy một phần các Quyết định số 167/QĐ-UBND ngày 24/01/2017 của UBND tỉnh Bình Dương, Quyết định số 161/QĐ-UBND ngày 18/01/2019 của UBND tỉnh Bình Dương về việc điều chỉnh thu hồi một phần thửa đất số 91, tờ bản đồ số 13, diện tích đất 4.901.3m2 của ông Hoàng Ngọc M đang sử dụng tại xã Hưng Hòa, huyện B, tỉnh Bình Dương, hủy một phần Quyết định số 1585/QĐ-UBND ngày 04/9/2019 của UBND Huyện B về việc phê duyệt phương án hỗ trợ đất và tài sản trên đất. Hủy một phần phương án hỗ trợ đất, tài sản gắn liền với đất và hủy bảng áp giá hỗ trợ về đất và tài sản gắn liền với thửa đất số 91, tờ bản đồ số 13, tại xã Hưng Hòa, huyện B và yêu cầu Tòa án tuyên bố ông Hoàng Ngọc M đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 4.901.3m2 thuộc thửa số 91, tờ bản đồ số 13, đất tọa lạc tại xã Hưng Hòa, huyện B, tỉnh Bình Dương.
[2.1] Về thẩm quyền và trình tự, thủ tục ban hành các quyết định bị kiện:
- Về thẩm quyền: Các Quyết định số 167/QĐ-UBND ngày 24/01/2017 của UBND tỉnh Bình Dương về việc thu hồi khu đất công có diện tích 59.291,3m2 do UBND xã Hưng Hòa quản lý để đầu tư xây dựng Trung tâm Văn hóa-Thể thao và Trường Mầm non; Quyết định số 161/QĐ-UBND ngày 18/01/2019 của UBND tỉnh Bình Dương về việc điều chỉnh một số nội dung tại Quyết định số 167/QĐ- UBND ngày 24/01/2017 của UBND tỉnh Bình Dương về việc thu hồi khu đất công có diện tích 59.291,3m2 do UBND xã Hưng Hòa quản lý để đầu tư xây dựng Trung tâm Văn hóa-Thể thao và Trường Mầm non là thuộc trường hợp thu hồi đất vì mục đích an ninh-quốc phòng, phát triển kinh tế vì lợi ích công cộng. Vì vậy các quyết định do UBND tỉnh Bình Dương ban hành là đúng quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 16, điểm c, khoản 3 Điều 62 Luật đất đai năm 2013, Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ.
- Về trình tự, thủ tục: Thực hiện các quyết định nói trên của UBND tỉnh Bình Dương, ngày 04/9/2019, UBND huyện B ban hành các Quyết định số 1585/QĐ-UBND về việc phê duyệt Phương án hỗ trợ đất và tài sản trên đất Dự án tổng thế giải phóng mặt bằng khu đất công diện tích 60.602,9m2 tại ấp 6, xã Hưng Hòa. Ngày 10/9/2019, UBND huyện B ban hành Quyết định số 1628/QĐ- UBND về việc phê duyệt kinh phí hỗ trợ đất và tài sản trên đất đối với hộ ông Hoàng Ngọc M, địa chỉ: xã Hưng Hòa, huyện B, tỉnh Bình Dương với tổng kinh phí hỗ trợ đất và tài sản trên đất được phê duyệt là 747.168.160 đồng (trong đó: Hỗ trợ về đất là 568.166.400 đồng; hỗ trợ về nhà ở là 31.752.000 đồng; hỗ trợ công trình phụ vật kiến trúc là 16.850.760 đồng; hỗ trợ cây trồng, vật nuôi là 130.399.000 đồng). Các quyết định của UBND huyện B được ban hành đúng quy định tại Điều 62, khoản 2 Điều 66 Luật đất đai năm 2013, Nghị định 47/2014- NĐ-CP của Chính phủ; trước khi thu hồi đất đã có họp dân, công khai quyết định thu hồi đất, kiểm đếm tài sản… có phê duyệt Dự án tổng thế giải phóng mặt bằng khu đất công diện tích 60.602,9m2 tại ấp 6, xã Hưng Hòa cho các hộ dân có đất bị thu hồi mức hỗ trợ về đất với mức hỗ trợ bằng 80% đơn giá quy định tại Quyết định số 66/2015/QĐ-UBND ngày 23/12/2015 của UBND tỉnh Bình Dương; hỗ trợ về nhà ở, các công trình phục vụ sinh hoạt bằng 80% đơn giá quy định tại Quyết định số 25/2015/QĐ-UBND ngày 22/7/2015 của UBND tỉnh Bình Dương; hỗ trợ về cây trồng và hoa màu bằng 100% đơn giá quy định tại Quyết định số 25/2015/QĐ-UBND ngày 22/7/2015 của UBND tỉnh Bình Dương.
Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy, việc UBND tỉnh Bình Dương và UBND huyện B ban hành các quyết định về thu hồi đất, về việc phê duyệt Phương án hỗ trợ đất và tài sản trên đất dự án tổng thể giải phóng mặt bằng khu đất công diện tích 60.602,9m2 tại ấp 6, xã Hưng Hòa; phương án hỗ trợ đất, tài sản gắn liền với đất, bảng áp giá hỗ trợ về đất và tài sản trên đất là đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền, Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng các quyết định bị kiện được ban hành đúng trình tự, thủ tục, đúng thẩm quyền là có căn cứ.
[2.2] Về nội dung các quyết định bị kiện:
- Về nguồn gốc đất bị thu hồi: phần đất ông M đang sử dụng có diện tích là 4.901,3m2 nằm trong tổng diện tích 60.602,9m2 đất công trước đây là của Nông trường Tân Hưng thuộc Công ty cao su Phước Hòa bàn giao cho UBND xã Hưng Hòa quản lý; ông M nhận chuyển nhượng QSDĐ của ông Đoàn Hùng Anh ngày 30/5/1991, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có giấy tờ hợp pháp, và gia đình ông M sử dụng từ năm 1991, trên đất ông M có xây dựng một căn nhà tạm diện tích 37,8m2; mái tole, nền gạch vách đất, cột bê tông xi măng và một số cây lâu năm như cây mít, cây xoài, cây cao su. Theo lời khai của ông M vào năm 1991, ông M có nộp thuế đất trồng cây hàng năm và có lập sổ kê khai diện tích và thu nộp thuế nông nghiệp do UBND xã Hưng Hòa lập sổ ngày 01/8/1992; ngoài ra, ông M không cung cấp thêm tài liệu, giấy tờ hợp pháp nào khác như: Kê khai vào sổ địa chính, sổ mục kê đất đai của xã Hưng Hòa; diện tích đất 4.901,3m2 thuộc thửa số 91, tờ bản đồ 13 chưa được UBND xã Hưng Hòa xác nhận đủ điều kiện để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như quy định tại Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003.
- Về bồi thường, hỗ trợ tái định cư: Ngày 12/9/2016, Ủy ban nhân dân huyện ban hành Kế hoạch số 94/KH- UBND về việc triển khai các bước thực hiện để giải phóng mặt bằng đối với khu đất công 59.29l,3m2 tại xã Hưng Hòa. Đến ngày 14/10/2016, Chi nhánh Trung tâm Phát triển quỹ đất phối hợp với địa phương thực hiện đo đạc, kiểm đếm tài sản trên thửa đất sổ 91, tờ bản đồ 13 tại xã Hưng Hòa do ông Hoàng Ngọc M đang sử dụng. Ngày 15/12/2016, UBND huyện B ban hành Công văn số 3053/UBND-KT về việc hỗ trợ đối với các hộ dân sử dụng đất thuộc khu đất công 5,9ha xã Hưng Hòa.
Ngày 15/02/2017, Chi nhánh Trung tâm Phát triển quỹ đất phối họp với địa phương tố chức họp dân thực hiện niêm yết công khai, phố biến các văn bản gồm: Công văn số 4595/UBND-KTN ngày 23/12/2015 của UBND tỉnh Bình Dương; Công văn số 3053/UBND-KT ngày 15/12/2016 của UBND huyện B; Quyết định số 3595/QĐ-UBND ngày 31/12/2015 của UBND tỉnh Bình Duơng (phê duyệt kế hoạch sử dụng đất và danh mục dự án công trình thuộc diện thu hồi đất, chuyến mục đích sử dụng đất lúa năm 2016 huyện B).
Ngày 25/10/2018, UBND huyện B ban hành Quyết định số 2297/QĐ- UBND về việc phê duyệt chủ trương đầu tư dự án tổng thể giải phóng mặt bằng khu đất công diện tích 60.602,9m2 tại ấp 6, xã Hưng Hòa. Ngày 11/3/2019, UBND huyện ban hành Công văn số 542/UBND-KT về việc hỗ trợ đối với các hộ dân sử dụng đất tại khu đất công 60.602,9m2 xã Hưng Hòa. Theo đó, thống nhất hỗ trợ về đất với mức hỗ trợ bằng 80% đơn giá quy định tại Quyết của UBND tỉnh Bình Dương, sinh hoạt bằng 80% đơn giá quy định tại Quyết định số 25/2015/QĐ- UBND ngày 22/7/2015 của UBND tỉnh Bình Dương và Quyết định số 03/2018/QĐ-UBND ngày 09/02/2018 của UBND tỉnh Bình Dương; hỗ trợ về cây trồng và hoa màu bằng 100% đơn giá quy định tại Quyết định số 25/2015/QĐ- UBND ngày 22/7/2015 của UBND tỉnh Bình Dương và Quyết định số 03/2018/QĐ-UBND ngày 09/02/2018 của UBND tỉnh Bình Dương.
Trung tâm Phát triển quỹ đất thực hiện áp giá, xây dựng dự thảo phương án hỗ trợ đất và tài sản trên đất (trong đó có hồ sơ hỗ trợ cho ông Hoàng Ngọc M). Sau khi thông qua Hội đồng bồi thường thống nhất dự thảo phưong án hỗ trợ đất và tài sản trên đất thì ngày 22/5/2019, Trung tâm Phát triển quỹ đất phối họp với địa phương tố chức họp dân công khai dự thảo phương án hỗ trợ đất và tài sản trên đất; đồng thời, niêm yết công khai dự thảo tại trụ sở UBND xã Hưng Hòa và Văn phòng ấp 6, xã Hưng Hòa vói thời hạn niêm yết là 30 ngày. Ngày 26/6/2019, Trung tâm Phát triến quỹ đất phối hợp với địa phương lập biên bản kết thúc công khai dự thảo phương án hỗ trợ đất và tài sản trên đất.
Ngày 04/9/2019, UBND huyện B ban hành Quyết định số 1585/QĐ-UBND về việc phê duyệt Phương án hỗ trợ đất và tài sản trên đất Dự án tổng thể giải phóng mặt bằng khu đất công diện tích 60.602,9m2 tại ấp 6, xã Hưng Hòa. Tổng cộng kinh phí hỗ trợ về đất là: 6.404.876.800 đồng, trong đó hộ ông Hoàng Ngọc M đang sử dụng thửa đất số 91, tờ bản đồ 13, diện tích giải tỏa 4.901,3m2 tiếp giáp đường ĐT 741B. Kèm danh sách chi tiết hỗ trợ về đất và tài sản trên đất đối với ông Hoàng Ngọc M là 747.168.160 đồng. Ngày 03/10/2019, bà Nguyễn Thị K là vợ ông Hoàng Ngọc M ký tên nhận số tiền 747.168.160 đồng tiền hỗ trợ về đất và tài sản trên đất công nằm trong tổng diện tích 60.602,9m2 do UBND xã Hưng Hòa quản lý.
Tại phiên tòa, bà Nguyễn Thị K cũng cho biết gia đình bà đã nhận xong một nền tái định cư.
Như vậy, Quyết định số 1585/QĐ-UBND ngày 04/9/2019 của UBND huyện B phê duyệt phương án hỗ trợ về đất và tài sản trên đất dự án tổng thể giải phóng mặt bằng khu đất công diện tích 60.602,9m2 tại ấp 6, xã Hưng Hòa với tổng kinh phí: 9.225.461.960 đồng (đính kèm phương án hỗ trợ đất và tài sản trên đất dự án tổng thể giải phóng mặt bằng khu đất công diện tích 60.602,9m2 tại ấp 6, xã Hưng Hòa); phương án hỗ trợ đất và tài sản trên đất và bảng áp giá hỗ trợ về đất và tài sản trên đất dự án giải phóng mặt bằng khu đất công diện tích 60.602,9m2 tại huyện B, tỉnh Bình Dương là đúng quy định pháp luật.
[3] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử nhận thấy không có đủ căn cứ để chấp nhận đơn kháng cáo của ông Hoàng Ngọc M, bà Nguyễn Thị K; quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử bác toàn bộ yêu cầu kháng cáo của ông Hoàng Ngọc M, bà Nguyễn Thị K phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[4] Đình chỉ yêu cầu tuyên bố ông Hoàng Ngọc M đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 4.901.3m2, tại thửa số 91, tờ bản đồ số 13, tại xã Hưng Hòa, huyện B, tỉnh Bình Dương do không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
[5] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên người kháng cáo phải chịu án phí hành chính phúc thẩm. Tuy nhiên, ông Hoàng Ngọc M và bà Nguyễn Thị K là người cao tuổi nên được miễn nộp tiền án phí theo điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 241 của Bộ luật Tố tụng hành chính năm 2015; Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện ông Hoàng Ngọc M và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị K. Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 13/2021/HC-ST ngày 29/4/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.
Tuyên xử:
1/ Bác yêu cầu khởi kiện của ông Hoàng Ngọc M về việc yêu cầu:
- Hủy một phần Quyết định 167/QĐ-UBND ngày 24/01/2017 của UBND tỉnh Bình Dương về việc thu hồi thu hồi khu đất công có diện tích 59.291,3m2 do UBND xã Hưng Hòa quản lý để đầu tư xây dựng Trung tâm văn hóa thể thao và Trường Mầm non;
- Hủy một phần Quyết định số 161/QĐ-UBND ngày 18/01/2019 của UBND tỉnh Bình Dương về việc điều chỉnh một số nội dung tại Quyết định số 167/QĐ-UBND ngày 24/01/2017 của UBND tỉnh Bình Dương về việc thu hồi khu đất công có diện tích 59.291,3m2 do UBND xã Hưng Hòa quản lý để đầu tư xây dựng Trung tâm văn hóa thể thao và Trường Mầm non.
- Hủy một phần Quyết định số 1585/QĐ-UBND ngày 04/9/2019 của UBND huyện B về việc phê duyệt Phương án hỗ trợ đất và tài sản trên đất Dự án tổng thể giải phóng mặt bằng khu đất công diện tích 60.602,9m2 tại ấp 6, xã Hưng Hòa.
- Hủy một phần phương án hỗ trợ đất, tài sản gắn liền với đất và hủy bảng áp giá hỗ trợ về đất và tài sản trên đất tại thửa đất số 91, tờ bản đồ 13, diện tích giải tỏa 4.901,3m2 tiếp giáp đường ĐT 741B.
2/. Đình chỉ yêu cầu tuyên bố ông Hoàng Ngọc M đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 4.901.3m2 thuộc thửa số 91, tờ bản đồ số 13, đất tọa lạc tại xã Hưng Hòa, huyện B, tỉnh Bình Dương do không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
3/. Án phí hành chính phúc thẩm: Ông Hoàng Ngọc M và bà Nguyễn Thị K được miễn nộp tiền án phí hành chính phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư số 283/2022/HC-PT
Số hiệu: | 283/2022/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 22/04/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về