Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 19/2021/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 19/2021/HC-PT NGÀY 20/01/2021 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Ngày 20 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số: 101/2020/TLPT-HC ngày 03 tháng 02 năm 2020 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”;

Do bản án hành chính sơ thẩm số 84/2019/HC-ST ngày 25/10/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 4170/2020/QĐ-PT ngày 28/12/2020, giữa các đương sự:

1. Người khởi kiện:

1.1/ Bà Trần Thị M, sinh năm 1950 (có mặt);

Địa chỉ: 3 Ô 2/2 khu phố Hải Phúc, thị trấn Phước H, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện:

-Luật sư Thái Thị Diễm T, công ty Luật TNHH MTV Tín Nhân, Đoàn Luật sư tỉnh An Giang (có mặt);

1.2/ Ông Nguyễn Văn Tr, sinh năm 1962 (vắng mặt);

Địa chỉ: 17 Ô 2/3 khu phố Hải Tân, thị trấn Phước H, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Người đại diện hợp pháp của ông Nguyễn Văn Tr (văn bản ủy quyền ghi ngày 12/06/2019 có sự chứng thực của Văn phòng Công chứng Nguyễn Văn Thanh, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu):

Ông Đỗ Biên T, sinh năm 1966 (vắng mặt);

Địa chỉ: 356/48 Xô Viết Nghệ Tĩnh, phường 25, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Người bị kiện:

Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện:

- Ông Lê Minh T1, là Phó trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Đ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt);

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1/ Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt);

Địa chỉ: 01 Phạm Văn Đồng, phường Phước T, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu:

- Ông Phan Văn M, là Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt);

- Bà Phạm Ngọc Y, là chuyên viên Chi cục quản lý đất đai thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt).

3.2/ Công ty S;

Địa chỉ: 53 Trần Quốc Thảo, phường 7, quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện hợp pháp của công ty S (văn bản ủy quyền ghi ngày 24/09/2019):

Ông Lê Hồng D, sinh năm 1975 (có mặt);

Địa chỉ: 110-112 Trần Quốc Thảo, phường 7, quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.

4. Người kháng cáo:

Bà Trần Thị M và ông Nguyễn Văn Tr, là người khởi kiện.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ngày 25/9/2009, Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu ban hành quyết định số 3335/QĐ-UBND về việc thu hồi 910.900 m2 để xây dựng dự án sân Golf và Dịch vụ Hương Sen tại thị trấn Phước H, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Sau đó, vào ngày 08/01/2010, UBND huyện Đ ban hành quyết định số 109/QĐ-UBND về việc thu hồi 8.582,3 m2 đất thuộc thửa 401, 371, 319, tờ bản đồ 16, thị trấn Phước H, huyện Đ đối với ông Nguyễn Văn Tr, thuộc thửa đất thu hồi số 491A, 485A, 492C bản đồ địa chính số 141-ĐĐ-09/BĐ-ĐC. Ngày 26/01/2010, Chủ tịch UBND huyện Đ ban hành quyết định số 309/QĐ-UBND về việc phê duyệt kinh phí bồi thường đối với diện tích 8.582,3 m2 cho ông Tr (gọi tắt là Quyết định 309).

Ngày 08/01/2010, UBND huyện Đ ban hành quyết định số 114/QĐ-UBND về việc thu hồi 16.050 m2 thuộc thửa 371, 319, 401 tờ bản đồ 16, thị trấn Phước H, huyện Đ đối với bà Trần Thị M và ông Nguyễn Văn Tr, thuộc thửa đất thu hồi số 492B, 491B, 485B bản đồ địa chính số 141-ĐĐ-09/BĐ-ĐC.

Ngày 26/01/2010, Chủ tịch UBND huyện Đ ban hành quyết định số 310/QĐ-UBND về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho bà Trần Thị M và ông Nguyễn Văn Tr đối với diện tích 16.050 m2 (gọi tắt là quyết định 310). Nhưng vì giữa bà M và ông Tr có sự tranh chấp về diện tích đất 16.050 m2 nên số tiền bồi thường bị giữ lại.

Cùng ngày 22/6/2010, Chủ tịch UBND huyện Đ ban hành quyết định số 1782/QĐ-UBND về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư bổ sung đối với diện tích 16.050 m2 cho một mình ông Tr (gọi tắt là quyết định 1782) và quyết định số 1783/QĐ-UBND về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư bổ sung đối với diện tích 8.582,3 m2 cho ông Tr (gọi tắt là quyết định 1783).

Không đồng ý với quyết định 310, vào ngày 14/07/2010 bà M làm đơn khiếu nại. Vào ngày 21/07/2011, Chủ tịch UBND huyện Đ ban hành quyết định số 1312/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của bà M, bác yêu cầu đòi bồi thường toàn bộ diện tích đất 16.050 m2 thuộc thửa đất số 319, 371 và 401, tờ bản đồ số 16 thị trấn Phước H (gọi tắt là quyết định 1312).

Ngày 16/ 9/2011, Chủ tịch UBND huyện Đ ban hành quyết định số 2179/QĐ-UBND về việc thu hồi, hủy bỏ các quyết định số 309, 310, 1782, 1783 với lý do hủy bỏ theo quyết định số 1312 (gọi tắt là quyết định 2179).

Ngày 19/07/2013, Chủ tịch UBND huyện Đ ban hành quyết định số 2436/QĐ-UBND về việc hủy bỏ quyết định 2179 với lý do: việc giải quyết hồ sơ khiếu nại của ông Tr và bà M chưa được thực hiện đúng theo trình tự, thủ tục (gọi tắt là quyết định 2436).

Ngày 16/09/2013, Chủ tịch UBND huyện Đ ban hành quyết định số 2909/QĐ-UBND với nội dung hủy bỏ quyết định 310 vì lý do như sau: sau khi thẩm tra, xác minh thì phần đất 16.050 m2 được bồi thường theo quyết định 310 là đất do Nhà nước quản lý, không thuộc quyền sử dụng của cả ông Tr và bà M.

Vì vậy, việc bồi thường theo quyết định 310 là không đúng quy định (gọi tắt là quyết định 2909).

Ngày 10/01/2014, Chủ tịch UBND huyện Đ ban hành quyết định số 45/QĐ-UBND về việc hủy bỏ quyết định 1782 với lý do: phần kinh phí bồi thường đã được phê duyệt cho ông Tr liên quan đến các thửa đất (16.050 m2) bị thu hồi, là đất do Nhà nước quản lý (gọi tắt là quyết định 45).

Ngày 10/01/2014, Chủ tịch UBND huyện Đ ban hành quyết định số 44/QĐ-UBND về việc hủy bỏ quyết định 309 và quyết định 1783 đối với ông Tr với lý do: phần kinh phí bồi thường đã được phê duyệt cho ông Tr liên quan đến thửa đất (8.582,3 m2) bị thu hồi là đất do Nhà nước quản lý (gọi tắt là quyết định 44).

Ngày 24/03/2014, bà M có đơn khởi kiện quyết định 2909 của UBND huyện Đ tại Tòa án nhân nhân huyện Đ.

Ngày 07/07/2014, ông Tr có đơn khởi kiện quyết định 2909 và quyết định 45 của UBND huyện Đ tại Tòa án nhân nhân huyện Đ.

Ngày 04/11/2014 Tòa án nhân dân huyện Đ ra quyết định nhập vụ án số 07/2014/QĐ-NVA thành một vụ án, người khởi kiện là ông Nguyễn Văn Tr và bà Trần Thị M; người bị kiện là UBND huyện Đ.

Ngày 05/5/2015, Chủ tịch UBND huyện Đ ban hành quyết định số 622/QĐ-UBND (gọi tắt là quyết định 622) về việc thu hồi, hủy bỏ các quyết định 2909, 44, 45 với lý do việc ban hành các quyết định nói trên có sai sót về thẩm quyền ban hành.

Ngày 05/5/2015, Chủ tịch UBND huyện Đ ban hành quyết định số 623/QĐ-UBND (gọi tắt là quyết định 623) về việc thu hồi, hủy bỏ các quyết định số 309, 310, 1782, 1783 với lý do như sau: sau khi thẩm tra xác minh thì có căn cứ xác định rằng phần diện tích đất được bồi thường 8.582,3 m2 và 16.050 m2 cho ông Tr và bà M, là đất do Nhà nước quản lý.

Ngày 26/5/2015, ông Tr có đơn xin rút toàn bộ đơn khởi kiện.

Ngày 03/6/2015 bà Trần Thị M có đơn khởi kiện bổ sung, yêu cầu Tòa án hủy quyết định 622 và quyết định 623.

Tại bản án hành chính sơ thẩm số 01/2015/HCST ngày 29/6/2015, Tòa án nhân dân huyện Đ đã bác bỏ toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị M.

Ngày 07/7/2015 bà M kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại bản án hành chính phúc thẩm số 16/2015/HCPT, Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà M, hủy bản án sơ thẩm số 01/2015/HCST ngày 29/6/2015 của Tòa án nhân dân huyện Đ, giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại theo thủ tục chung.

Ngày 09/07/2015, ông Tr có đơn khởi kiện quyết định 623 tại Tòa án nhân dân huyện Đ.

Ngày 20/5/2016, Tòa án nhân dân huyện Đ có quyết định nhập vụ án số 01/QĐ-NVA thành một vụ án: người khởi kiện là bà M và ông Tr; người bị kiện là UBND huyện Đ; đối tượng bị khởi kiện là quyết định hành chính số 622 và 623.

Ngày 20/05/2016, Tòa án nhân dân huyện Đ ra quyết định chuyển vụ án số 02/2016/QĐ-CVA đến Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu để giải quyết theo thẩm quyền, lý do như sau: việc khởi kiện của bà M và ông Tr đối với quyết định 622, 623 có liên quan đến quyết định số 8988/QĐ-UB ngày 12/11/2002 của UBND tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu về việc không thừa nhận việc mẹ của bà M (là bà Nguyễn Thị Chiêm) xin lại phần đất có diện tích 10,2 ha khu vực Cầu Tum thuộc thửa 1368, tờ bản đồ số 3 của bản đồ địa chính xã Phước Hải của.

Yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị M được trình bày như sau:

-Diện tích đất 16.050 m2 thuộc thửa 371, 319, 401 tờ bản đồ 16, thị trấn Phước H, huyện Đ là 01 phần trong diện tích tổng diện tích đất 109.576 m2 có nguồn gốc do ông nội bà M (sư cố Trần Văn Liên) và cha-mẹ bà M, là ông Trần Văn Khai bà Nguyễn Thị Chiêm, khai khẩn từ năm 1956, trên đất có xây dựng 01 ngôi chùa để tu tại gia.

Sau khi ông Liên chết vào năm 1969 thì ông Khai làm trụ trì chùa và quản lý đất. Ngày 25/2/1974,Ty điền địa Phước Tuy đã cho đặc nhượng quyền sở hữu và sử dụng ngôi chùa; ông Khai có đóng thuế thổ trạch cho Nhà nước. Sau năm 1975, gia đình bà M tiếp tục canh tác, trồng hoa màu và xây dựng một ngôi nhà để giữ đất.

Đến năm 1982, để cải thiện đời sống cho cán bộ nên UBND xã (nay là thị trấn) Phước Hải mượn phần đất nói trên của gia đình bà M để trồng tràm. Mặc dù không có làm giấy tờ nhưng việc cho mượn đất này có sự xác nhận của bà Lâm Thị Ảnh (nguyên là Chủ tịch xã Phước Hải).

Ngày 12/08/2003 UBND tỉnh BR-VT ban hành quyết định số 7551/QĐ- UBND thu hồi 126.363 m2 đất tại xã Phước Hải để giao cho công ty Bến Thành thuê, thực hiện dự án khu du lịch Bến Thành-Long Hải. Phần diện tích đất của bà M bị thu hồi là 4.7661 m2 và đã được đền bù số tiền 445.776.910 đồng. Ngày 10/11/2005 UBND huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 2.7247 m2 thuộc thửa đất 383, tờ bản đồ số 16, số H00358.

Năm 2008, bà M tiến hành thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích còn lại là 17.182,8 m2 nhưng chưa được Nhà nước giải quyết.

Ngày 08/01/2010 UBND huyện Đ ban hành quyết định số 114/QĐ-UBND thu hồi 16.050 m2 đất do ông Nguyễn Văn Tr và bà Trần Thị M đang sử dụng, trong khi ông Nguyễn Văn Tr không có bất kỳ giấy tờ gì chứng minh về nguồn gốc đất. Trong thời gian vừa qua, UBND huyện Đ ban hành nhiều quyết định mới, hủy bỏ quyết định cũ, đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bà M.

Bà M khởi kiện, yêu cầu hủy quyết định số 622/QĐ-UBND, quyết định số 623/QĐ-UBND ngày 05/05/2015 của Chủ tịch UBND huyện Đ để đương sự được nhận tiền bồi thường theo quy định.

Yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Tr được trình bày như sau:

-Nguồn gốc đất mà UBND huyện thu hồi, là do ông Tr tự khai phá từ năm 1986 với diện tích 6 ha tại khu Gò Thầy Tòng và trồng tràm bông vàng theo phong trào phủ xanh đất trống đồi trọc; việc trồng tràm đã được hạt kiểm lâm huyện Long Đất xác minh vào ngày 11/09/2003. Đến năm 2004, ông Tr đã được bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi phần đất có diện tích 37.117,9 m2 để xây dựng khu du lịch Bến Thành và sau đó cũng được bồi thường phần diện tích 7.262 m2 đế tiến hành xây dựng khu du lịch Minh Đạm và đường dây điện trung thế du lịch Bến Thành. Phần diện tích bị thu hồi trước đây có cùng nguồn gốc với diện tích đất mà UBND huyện thu hồi để xây dựng dự án sân Golf và Dịch vụ Hương Sen.

Ngày 08/01/2010 UBND huyện Đ ban hành quyết định số 114/QĐ- UBND thu hồi 16.050 m2 đất do ông Nguyễn Văn Tr và bà Trần Thị M đang sử dụng tại thị trấn Phước H, huyện Đ thuộc thửa đất số 492B, 491B, 485B, tương ứng với thửa địa chính số 401, 319, 371, tờ bản đồ số 16, tại thị trấn Phước H của ông Tr; quyết định số 109 thu hồi diện tích 8.5823 m2 đất thuộc thửa số 491A, 485A, 492C tờ bản đồ địa chính TH/41-ĐĐ-09/BĐ-ĐC được Sở Tài nguyên và Môi trường xác nhận ngày 25/9/2009 tại thị trấn Phước H để đầu tư xây dựng dựa án sân Golf và dịch vụ Hương sen. Sau đó UBND huyện Đ ban hành quyết định số 1782 và 1783 phê duyệt kinh phí bồi thường cho ông Tr. Tuy nhiên, ngày 16/09/2013 Chủ tịch UBND huyện ban hành quyết định 2909 để thu hồi, hủy bỏ quyết định 310 và ban hành quyết định số 45 thu hồi hủy bỏ quyết định 1782; ban hành quyết định số 44 thu hồi hủy bỏ quyết định số 309 và quyết định số 1783.

Ngày 07/07/2014 ông Tr khởi kiện, yêu cầu hủy quyết định 2909/QĐ- UBND và quyết định số 45/QĐ-UBND. Trong khi vụ án đang giải quyết thì ngày 05/5/2015 Chủ tịch UBND huyện Đ ban hành quyết định số 622/QĐ- UBND và 623/QĐ-UBND.

Ngày 26/05/2015 ông Tr có đơn xin rút toàn bộ đơn khởi kiện. Vì quyết định số 623/QĐ-UBND thu hồi, hủy bỏ các quyết định số 309/QĐ-UBND, 310/QĐ-UBND và 1783/QĐ-UBND nên vào ngày 09/7/2015, ông Nguyễn Văn Tr có đơn khởi kiện quyết định số 623/QĐ-UBND ngày 05/05/2015 của Chủ tịch UBND huyện Đ tại Tòa án nhân dân huyện Đ.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đ trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà M và ông Tr, như sau:

-Quyết định số 3335/QĐ-UBND ngày 25/09/2009 của UBND tỉnh về việc thu hồi 910.000 m2 đất tại thị trấn Phước H để đầu tư xây dựng sân Golf và dịch vụ Hương Sen.

Tháng 11/2009, Ban bồi thường thiệt hại và giải phóng mặt bằng lập biên bản kiểm kê số 111/BBKK-BTTN (BL 307) cho ông Nguyễn Văn Tr và bà Trần Thị M với diện tích thu hồi 16.050 m2 (biên bản kiểm kê thể hiện nội dung: đất đang tranh chấp giữa ông Tr và bà M).

Ngày 24/10/2009, UBND thị trấn Phước H có biên bản xét duyệt số 110/1/BB-UBND (BL 326) với nguồn gốc đất được xét duyệt là đất đang tranh chấp giữa ông Tr và bà M.

Ngày 08/01/2010, UBND huyện Đ bàn hành quyết định 114 về việc thu hồi 16.050 m2 đất do ông Nguyễn Văn Tr và bà Trần Thị M đang sử dụng tại thị trấn Phước H. Ngày 26/01/2010 UBND huyện ban hành quyết định 310 phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho hộ ông Nguyễn Văn Tr và bà Trần Thị M (đất đang tranh chấp ông Tr và bà M bị đề nghị giữ lại tiền) để thu hồi đất, giao cho công ty CP Hương sen đầu tư xây dựng dự án sân Golf và dịch vụ Hương sen; diện tích 16.050 m2 gồm các thửa số 492 B, 491B, 485B, tương ứng với thửa đất số 319,371,401, tờ bản đồ số 16, thị trấn Phước H.

Bà M không đồng ý với quyết định 310 nên đã khiếu nại và yêu cầu không bồi thường cho hộ ông Tr.

Quá trình thẩm tra, xác minh vụ việc đã xác định sự việc như sau: từ năm 1982 đến nay, phần diện tích đất nêu trên đã được UBND thị trấn Phước H trồng cây theo chủ trương phủ xanh đất trống đồi trọc. Đến năm 1993, đất được quy hoạch thành khu vườn thực vật của tỉnh và Nhà nước đã quản lý, sử dụng theo quy hoạch. Năm 2002, khi gia đình bà M có đơn xin lại đất tại khu vực này, UBND tỉnh đã ban hành quyết định số 8988/QĐ-UB ngày 12/11/2002 bác đơn xin lại đất của gia đình bà M (vì đương sự không có quá trình sử dụng đất ổn định, liên tục). Theo hiện trạng, số cây tràm trên các thửa đất này là cây tái sinh sau khi khai thác và một số cây do hạt rụng mọc tự nhiên.

Về phía ông Tr, nguyên là cán bộ xã đội Phước Hải, vào khoảng năm 1986 được UBND thị trấn Phước H giao trách nhiệm cùng với lực lượng xã đội trồng cây phủ xanh đất trống đồi trọc tại khu cầu Tum- gò thầy Tòng (bao gồm thửa 319, 371 và 401). Từ năm 1982 đến khi ban hành quyết định số 8988/QĐ- UB ngày 12/11/2002 của UBND tỉnh, ông Tr không kê khai đăng ký hoặc có giấy tờ chứng minh nguồn gốc các thửa 319, 371 và 401 vì trong thực tế, ông Tr không phải là người khai phá, sử dụng các thửa đất này.

Vì vậy, việc phê duyệt kinh phí bồi thường cho bà M và ông Tr đối với các thửa 319, 371 và 401 theo quyết định 310 là không đúng đối tượng. Do đó, vào ngày 16/9/2013, UBND huyện ban hành quyết định 2909 thu hồi, hủy bỏ quyết định số 310.

Ngày 05/05/2015, Chủ tịch UBND huyện Đ ban hành quyết định số 622 về việc thu hồi, hủy bỏ quyết định số 2909, quyết định số 44, quyết định số 45; lý do thu hồi, hủy bỏ: việc ban hành các quyết định trên có sai sót về thẩm quyền.

Ngày 05/05/2015, Chủ tịch UBND huyện Đ ban hành quyết định số 623/QĐ-UBND về việc thu hồi, hủy bỏ quyết định số 309/QĐ-UBND, quyết định số 310/QĐ-UBND cùng ngày 26/01/2010; quyết định số 1782/QĐ-UBND, quyết định số 1783/QĐ-UBND cùng ngày 22/06/2010 của UBND huyện Đ; lý do thu hồi, hủy bỏ: sau khi thẩm tra, xác minh thì có căn cứ xác định rằng phần đất đã bồi thường theo các quyết định của UBND huyện Đ là đất do Nhà nước quản lý, không thuộc quyền sử dụng của ông Nguyễn Văn Tr và bà Trần Thị M, việc bồi thường là chưa đúng quy định.

Người bị kiện đề nghị Tòa án bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Tr và bà Trần Thị M.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trình bày ý kiến như sau:

Phần đất bà Nguyễn Thị Chiêm (là mẹ bà M) đòi Nhà nước trả lại, có diện tích theo đơn trình bày, là 10,2 ha; đo đạc năm 1995 là 6,4575 ha thuộc thửa 1368 tờ số 3 BĐĐC xã Phước Hải; đất có nguồn gốc do sư ông Trần Văn Liên và nhiều người dân vỡ đất lập chùa. Năm 1968, chùa bị sụp đổ do chiến tranh. Sau năm 1975, bà Chiêm cùng nhiều người dân đến rào đất, sử dụng 4.080 m2 tại khu vực chùa cũ; có sử dụng những phần diện tích còn lại nhưng không liên tục.

Năm 1986 ở xã Phước Hải có tổ chức trồng cây xanh trên những vùng đất trống tại khu vực này. Năm 1993, dự án quy hoạch vườn thực vật của tỉnh được phê duyệt bao gồm diện tích khu vực này. Hiện nay, Nhà nước đã quản lý, sử dụng khu đất này theo quy hoạch.

Theo quy định tại Điều 2 Luật Đất đai năm 1993 (về việc xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất) và Nghị định số 17/1999/NĐ-CP ngày 29/03/1999 của Chính Phủ, gia đình bà Nguyễn Thị Chiêm không có quá trình sử dụng đất ổn định, liên tục nên không được xem xét trả lại 10,2 ha đất nêu trên.

Trên cơ sở đó, vào ngày 12/11/2002, UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ban hành quyết định 8988/QĐ-UB về việc giải quyết đơn của bà Nguyễn Thị Chiêm, không thừa nhận việc xin lại 10,2 ha đất theo đơn yêu cầu của đương sự.

Với những ý kiến nói trên, người bảo vệ quyền và lợi ích của UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đề nghị Tòa án bác yêu cầu của người khởi kiện.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là công ty CP Hương Sen trình bày ý kiến như sau: đương sự không có ý kiến đối với yêu cầu của người khởi kiện; đề nghị Tòa án giải quyết theo quy địnhpháp luật.

Tại bản án hành chính sơ thẩm số 84/2019/HC-ST ngày 25/10/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu quyết định như sau:

1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà M đòi hủy quyết định số 622/QĐ- UBND, quyết định số 623/QĐ-UBND ngày 05/05/2015 của Chủ tịch UBND huyện Đ.

2. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Tr đòi hủy quyết định số 623/QĐ-UBND ngày 05/05/2015 của Chủ tịch UBND huyện Đ.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền yêu cầu thi hành án, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vào ngày 02/11/2019, ông Nguyễn Văn Tr có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của đương sự.

Vào ngày 07/11/2019, bà Trần Thị M có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của đương sự.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, các đương sự trình bày ý kiến như sau:

-Bà Trần Thị M và Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích của bà Trần Thị M đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị M;

-Ông Nguyễn Văn Tr vắng mặt; người đại diện của ông Nguyễn Văn Tr, là ông Đỗ Biên T, có đơn ghi ngày 19/01/2021 yêu cầu hoãn lại phiên tòa phúc thẩm vì đương sự đang bị bệnh (viêm họng hạt);

-Người bảo vệ quyền lợi của UBND huyện Đ, là ông Lê Minh Trung, có đơn ghi ngày 14/01/2021, yêu cầu hoãn phiên tòa phúc thẩm vì bận việc khác, không tham gia phiên tòa được;

-Công ty CP Hương Sen đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật;

-Những đương sự khác vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay nhưng không có văn bản nào thay đổi ý kiến đã trình bày trong quá trình Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến như sau:

-Về thủ tục tố tụng: Tòa án các cấp và đương sự tham gia tố tụng thực hiện đúng thủ tục tố tụng;

-Về nội dung giải quyết vụ án:

Tòa án cấp sơ thẩm xét xử, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị M và ông Nguyễn Văn Tr đòi hủy quyết định số 622/QĐ-UBND, quyết định số 623/QĐ-UBND ngày 05/05/2015 của Chủ tịch UBND huyện Đ, là đúng pháp luật.

Bà Trần Thị M và ông Nguyễn Văn Tr kháng cáo, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nhưng không có tài liệu, chứng cứ gì mới; đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]Về thủ tục tố tụng:

[1.1]Tòa án cấp phúc thẩm mở phiên tòa hợp lệ lần thứ nhất vào ngày 24/09/2020 nhưng phải hoãn phiên tòa do bà Trần Thị M yêu cầu phải có mặt đủ hai Luật sư mà đương sự đã yêu cầu bảo vệ quyền lợi cho mình.

Tòa án cấp phúc thẩm mở phiên tòa lần thứ hai vào ngày hôm nay, nhưng ông Nguyễn Văn Tr (người khởi kiện có kháng cáo) và ông Lê Minh Trung (người bảo vệ quyền lợi của UBND huyện Đ) vắng mặt tại phiên tòa và có đơn xin hoãn phiên tòa theo đơn ghi ngày 19/01/2021 (của ông Đỗ Biên T, người đại diện của ông Nguyễn Văn Tr) và đơn ghi ngày 14/01/2021.

Xét thấy Tòa án cấp phúc thẩm mở phiên tòa hợp lệ lần thứ hai vào ngày hôm nay, 20/01/2021; các lý do yêu cầu hoãn phiên tòa mà các đương sự nêu ra, là những lý do không hợp pháp. Vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

[1.2]Tại phiên tòa hôm nay, người kháng cáo là ông Nguyễn Văn Tr vắng mặt nhưng không có văn bản thay đổi yêu cầu kháng cáo.

Xét thấy, ngoài kháng cáo của ông Nguyễn Văn Tr, thì còn có kháng cáo của bà Trần Thị M; nội dung kháng cáo của bà Trần Thị M và của ông Nguyễn Văn Tr có phần tương đồng và do đó, Tòa án cần phải xem xét lại toàn bộ vụ án.

Vì vậy, mặc dù ông Nguyễn Văn Tr vắng mặt nhưng Tòa án cấp phúc thẩm sẽ xem xét luôn cả phần kháng cáo của ông Nguyễn Văn Tr mà không đình chỉ xét xử phúc thẩm yêu cầu kháng cáo của đương sự.

[2] Về nội dung giải quyết vụ án:

[2.1]Trong quá trình giải quyết việc thu hồi, bồi thường đối với phần đất có diện tích 16.050 m2 đất do ông Nguyễn Văn Tr và bà Trần Thị M đang sử dụng tại thị trấn Phước H, huyện Đ thuộc thửa đất số 492B, 491B, 485B, tương ứng với thửa địa chính số 401, 319, 371, tờ bản đồ số 16, tại thị trấn Phước H từ năm 2009 cho đến nay, UBND huyện Đ đã ban hành rất nhiều quyết định hành chính chi phối đối với bà Trần Thị M và ông Nguyễn Văn Tr.

Trong quá trình nói trên, quyết định số 622/QĐ-UBND và quyết định số 623/QĐ-UBND ngày 05/05/2015 của Chủ tịch UBND huyện Đ, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu là những quyết định ban hành sau cùng và đang là những quyết định bị kiện trong vụ án.

Nội dung của quyết định số 622/QĐ-UBND và quyết định số 623/QĐ- UBND cùng ngày 05/05/2015 của Chủ tịch UBND huyện Đ, là hủy bỏ tất cả những quyết định hành chính trước đây mà UBND huyện Đ đã ban hành liên quan đến vấn đề thu hồi, bồi thường và hỗ trợ tái định cư đối với bà Trần Thị M, ông Nguyễn Văn Tr trong việc thu hồi diện tích đất 16.050 m2 tại thị trấn Phước H, huyện Đ thuộc thửa đất số 492B, 491B, 485B, tương ứng với thửa địa chính số 401, 319, 371, tờ bản đồ số 16, tại thị trấn Phước H.

Căn cứ pháp luật để Chủ tịch UBND huyện Đ ra quyết định số 622/QĐ- UBND và quyết định số 623/QĐ-UBND cùng ngày 05/05/2015, như sau:

-Từ năm 1982 đến nay, phần diện tích đất 16.050 m2 nêu trên đã được UBND thị trấn Phước H trồng cây theo chủ trương phủ xanh đất trống đồi trọc. Đến năm 1993, đất được quy hoạch thành khu vườn thực vật của tỉnh và Nhà nước đã quản lý, sử dụng theo quy hoạch. Năm 2002, khi gia đình bà Trần Thị M có đơn xin lại đất tại khu vực này, UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã ban hành quyết định số 8988/QĐ-UB ngày 12/11/2002 bác đơn xin lại đất của gia đình bà Trần Thị M (vì đương sự không có quá trình sử dụng đất ổn định, liên tục). Những cây cây tràm có trên các thửa đất hiện nay, là cây tái sinh sau khi khai thác và một số cây do hạt rụng mọc tự nhiên;

-Ông Nguyễn Văn Tr, nguyên là cán bộ xã đội Phước Hải, vào khoảng năm 1986 được UBND thị trấn Phước H giao trách nhiệm cùng với lực lượng xã đội trồng cây phủ xanh đất trống đồi trọc tại khu cầu Tum- gò thầy Tòng (bao gồm thửa 319, 371 và 401). Từ năm 1982 đến khi ban hành quyết định số 8988/QĐ-UB ngày 12/11/2002 của UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, ông Nguyễn Văn Tr không kê khai đăng ký hoặc có giấy tờ chứng minh nguồn gốc các thửa 319, 371 và 401 bởi vì trong thực tế, ông Nguyễn Văn Tr không phải là người khai phá, sử dụng các thửa đất này;

-Như vậy, việc phê duyệt kinh phí bồi thường cho bà Trần Thị M và ông Nguyễn Văn Tr đối với diện tích đất nói trên tại các thửa 319, 371 và 401 là không đúng đối tượng nên cần phải thu hồi, hủy bỏ tất cả các quyết trước đây liên quan đến việc thu hồi đất, bồi thường và hỗ trợ tái định cư áp dụng đối với bà Trần Thị M và ông Nguyễn Văn Tr.

[2.2]Như vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị M và ông Nguyễn Văn Tr đòi hủy quyết định số 622/QĐ-UBND và quyết định số 623/QĐ-UBND cùng ngày 05/05/2015 của Chủ tịch UBND huyện Đ, là có căn cứ pháp luật.

Bà Trần Thị M và ông Nguyễn Văn Tr kháng cáo bản án sơ thẩm nhưng không có tình tiết gì mới. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bà Trần Thị M và của ông Nguyễn Văn Tr.

QUYẾT ĐỊNH

1/Không chấp nhận kháng cáo của bà Trần Thị M và kháng cáo của ông Nguyễn Văn Tr; giữ nguyên bản án sơ thẩm số 84/2019/HC-ST ngày 25/10/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

2/Về án phí phúc thẩm: miễn án phí cho bà Trần Thị M (đương sự là người cao tuổi).

Ông Nguyễn Văn Tr phải chịu 300.000 đồng nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp theo biên lai số TU/2019/0000514 ngày 15/11/2019 của Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; ông Nguyễn Văn Tr đã nộp đủ án phí phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 19/2021/HC-PT

Số hiệu:19/2021/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 20/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;