Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực hỗ trợ, đền bù giải phóng mặt bằng khi thu hồi đất và quyết định giải quyết khiếu nại số 65/2025/HC-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 65/2025/HC-PT NGÀY 13/02/2025 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC HỖ TRỢ, ĐỀN BÙ GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG KHI THU HỒI ĐẤT VÀ QUYẾT ĐỊNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI

Ngày 13 tháng 02 năm 2025, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa công khai xét xử vụ án hành chính phúc thẩm thụ lý số 670/2024/TLPT-HC ngày 05 tháng 12 năm 2024 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực hỗ trợ, đền bù giải phóng mặt bằng khi thu hồi đất và quyết định giải quyết khiếu nại”, do có kháng cáo của người khởi kiện đối với Bản án hành chính sơ thẩm số 123/2024/HC-ST ngày 16 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 543/2025/QĐ-PT ngày 21 tháng 01 năm 2025; giữa các đương sự:

* Người khởi kiện: Bà Trần Thị P, sinh năm 1980; địa chỉ: Tổ K, phường S, quận H, thành phố Hải Phòng; có mặt.

Người đại diện theo uỷ quyền của bà P: Công ty L; địa chỉ: Số C, ngõ E K, phường N, quận B, thành phố Hà Nội do bà Trần Kim D - Giám đốc, đại diện theo pháp luật; có mặt.

* Người bị kiện: Ủy ban nhân dân quận H, thành phố Hải Phòng và Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận H, thành phố Hải Phòng; Người đại diện theo ủy quyền: Ông Dương Đức H - Phó Chủ tịch UBND quận, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án sơ thẩm và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, người khởi kiện trình bày:

Gia đình bà là chủ sử dụng đất tại diện tích 291,47m² tại thửa đất số 39 tờ bản đồ số 40 bản đồ địa chính phường S, quận H, thành phố Hải Phòng.

Về nguồn gốc diện tích đất này, ngày 12/02/1992 bà P nhận chuyển nhượng thửa đất của ông Bùi Hữu T (địa chỉ số A Khu K, phường S, quận H, thành phố Hải Phòng). Khi chuyển nhượng hai bên có giấy biên nhận nhưng không làm thủ tục công chứng, chứng thực. Từ năm 1992, gia đình bà sử dụng đất ổn định không có tranh chấp, thực hiện nghĩa vụ đóng thuế đất đầy đủ cho nhà nước từ năm 1993 đến năm 2009, có biên lai thu thuế đất ở đô thị. Diện tích đất của bà P đủ điều kiện được cấp GCNQSDĐ.

Quá trình sử dụng thửa đất trên, thực hiện Dự án Chợ đầu mối hoa quả phường S, năm 2017 UBND quận H có ban hành quyết định thu hồi đất và phê duyệt phương án bồi thường kèm theo. Quá trình UBND quận H đo vẽ thửa đất và kiểm đếm tài sản trên đất, gia đình bà P đều chứng kiến và xác nhận.

Khi UBND quận thu hồi đất, bà P không được bồi thường về đất mà chỉ được hỗ trợ số tiền 174.822.000 đồng (291,47m² x 600.000đ/m²).

Không đồng ý với quyết định phê duyệt phương án bồi thường và hỗ trợ khi thu hồi đất của UBND quận H nên bà P đã làm đơn khiếu nại. Ngày 16/11/2023, Chủ tịch UBND quận H đã có quyết định số 2161/UBND về việc giải quyết khiếu nại. Tuy nhiên, bà P vẫn không đồng ý với quyết định trên nên đã làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

1. Huỷ Quyết định số 104a/QĐ-UBND ngày 26/01/2018 của Ủy ban nhân dân quận H, thành phố Hải Phòng về việc phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ giải phóng mặt bằng thu hồi đất thực hiện Dự án xây dựng chợ đầu mối rau, quả tại phường S, quận H (đợt 2) và Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư GPMB thực hiện dự án chợ đầu mối rau quả tại phường S, quận H ngày 24/10/2017 và bồi thường về đất ở đối với diện tích 291,47m², bồi thường 100% tài sản trên đất, bố trí đất tái định cư; chi trả các khoản hỗ trợ khi thu hồi đất.

2. Huỷ Quyết định số 2161/QĐ-UBND ngày 16/11/2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận H, thành phố Hải Phòng về việc giải quyết khiếu nại của bà Trần Thị P, địa chỉ: Tổ K, phường S, quận H, thành phố Hải Phòng (lần đầu).

Người bị kiện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận H và Ủy ban nhân dân quận H trình bày:

Theo Trích lục nguồn gốc sử dụng đất ngày 30/9/2017 thể hiện: Hộ bà Trần Thị P sử dụng tổng diện tích là 291,47m² thuộc các thửa: thửa số 8 tờ bản đồ số 39, thửa số 26 tờ bản đồ số 31, thửa số 6, tờ bản đồ số 32, thửa số 13 tờ bản đồ số 40 thuộc BĐĐC phường Sở Dầu là đất ao (nuôi trồng thủy sản) và đất hoang do UBND phường S quản lý. Hộ ông Bùi Hữu Thứ T1 sử dụng diện tích đất này vào mục đích trồng cây hàng năm từ sau năm 1985. Đến sau năm 1995, ông T tiếp tục san lấp và chuyển nhượng cho bà Trần Thị P (không có xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền). Bà Trần Thị P sử dụng vào mục đích trồng cây hàng năm từ đó đến nay.

Ngày 24/10/2017, UBND quận H ban hành Quyết định số 1887/QĐ- UBND về việc thu hồi đất để thực hiện Dự án xây dựng Chợ đầu mối rau, quả tại phường S, quận H đối với hộ bà Trần Thị Phương diện T2 291,47m² tại Tổ K, phường S, quận H.

Ngày 24/10/2017, UBND quận H ban hành Quyết định số 1846/QĐ- UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng thu hồi đất thực hiện dự án xây dựng Chợ đầu mối rau, quả tại phường S, quận H.

Căn cứ vào Trích lục nguồn gốc sử dụng đất hộ bà Trần Thị P không đủ điều kiện bồi thường về đất, vật kiến trúc, không được tính toán chi phí còn lại đầu tư vào đất khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo quy định tại Điều 82 và Điều 92 Luật Đất đai năm 2013.

Tuy nhiên căn cứ vào tình hình thực tế, UBND quận H đã vận dụng Công văn số 601/UBND-TH ngày 29/4/2016 của UBND thành phố H đối với các trường hợp không vi phạm hành lang bảo vệ các công trình theo quy định: Công trình vật kiến trúc xây dựng trước ngày 01/7/2004 hỗ trợ 70%; từ ngày 01/7/2004 đến ngày 01/7/2014 hỗ trợ 30% giá trị theo Quyết định 324/QĐ- UBND ngày 05/02/2015 và theo Quyết định số 58/QĐ-UBND ngày 12/01/2015 của UBND thành phố H.

Ngày 26/01/2018, UBND quận ban hành Quyết định số 104a/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng thu hồi đất thực hiện dự án xây dựng Chợ đầu mối rau, quả tại phường S, quận H (Đ), (thay thế Quyết định số 1846/QĐ-UBND ngày 24/10/2017), trong đó có hộ bà Trần Thị P được bồi thường hỗ trợ 2.196.000 đồng.

- Về bố trí tái định cư: Theo trích lục nguồn gốc sử dụng đất và Biên bản họp xác minh việc ăn ở thực tế của các hộ dân có nhà ở thuộc dự án xây dựng Chợ đầu mối rau, quả tại phường S thì hộ bà Trần Thị P không ăn ở thực tế tại thửa đất bị thu hồi để thực hiện Dự án thuộc Tổ K, phường S, quận H.

Căn cứ Khoản 4, Điều 6 Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định: “Đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất gắn liền với nhà ở thuộc trường hợp phải di chuyển chỗ ở nhưng không đủ điều kiện được bồi thường về đất ở, nếu không có chỗ ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất ở thu hồi thì được Nhà nước bán, cho thuê, cho thuê mua bán ở hoặc giao đất ở có thu tiền sử dụng đất. Giá bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở, giá đất ở tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất do UBND cấp tỉnh quy định”, hộ bà Trần Thị P không đủ điều kiện được giao đất có thu tiền sử dụng đất.

- Về chi trả các khoản hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi:

Căn cứ tình hình thực tế, các hộ dân có đất bị thu hồi tại Dự án đã có công tôn tạo san lấp mặt bằng, vì vậy, để tạo điều kiện hỗ trợ thêm cho các hộ dân, UBND quận H đã đề xuất với Công ty TNHH P1 quan tâm hỗ trợ khác bằng nguồn kinh phí của Công ty. Trên cơ sở đó hộ bà Trần Thị P được Công ty TNHH P1 hỗ trợ thêm số tiền là 174.882.000 đồng.

- Về việc nhận tiền và bàn giao mặt bằng: Ngày 21/12/2017, bà Trần Thị P đã nhận số tiền 177.078.000 đồng (tiền bồi thường, hỗ trợ là 2.196.000 đồng và 174.882.000 đồng còn lại là tiền Công ty TNHH P1 hỗ trợ ngoài) và bàn giao mặt bằng cho UBND quận theo quy định.

- Quá trình giải quyết khiếu nại:

UBND quận H đã nhận được đơn khiếu nại của bà Trần Kim D, Giám đốc Công ty L, địa chỉ: số C ngõ E đường K, phường N, quận B, thành phố Hà Nội là người đại diện ủy quyền của 14 hộ dân có đất bị thu hồi thuộc Dự án Chợ đầu mối rau, quả tại phường S (theo nội dung Giấy ủy quyền ngày 28/4/2023), trong đó có hộ bà Trần Thị P.

Ngày 17/5/2023, UBND quận H đã có Thông báo số 254/TB-UBND về việc thụ lý giải quyết khiếu nại lần đầu của bà Trần Kim D.

Ngày 17/5/2023, UBND quận H ban hành Quyết định số 896/QĐ-CT về việc xác minh nội dung khiếu nại của bà Trần Thị D1: Khiếu nại hành vi hành chính của UBND quận H liên quan đến việc thực hiện, phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thực hiện Dự án Chợ đầu mối rau, quả tại phường S, quận H đối với 14 hộ dân là chưa đúng với các quy định của pháp luật, không thực hiện việc kiểm kê cũng như không có Biên bản kiểm kê tại thời điểm thu hồi đất vào năm 2017 để thực hiện Dự án Chợ đầu mối rau, quả tại phường S, quận H, cụ thể:

- Xác định sai loại đất dẫn đến không bồi thường về đất, tài sản khác trên đất và các khoản hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi;

- Không bố trí tái định cư cho bà Trần Thị P.

UBND quận H đã giao cho Thanh tra quận giải quyết các khiếu nại của hộ bà Trần Thị P theo quy định.

Ngày 16/11/2023, Chủ tịch UBND quận H đã có Quyết định số 2161/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của bà Trần Thị P, địa chỉ Tổ K, phường S, quận H, thành phố Hải Phòng (lần đầu) kết luận các nội dung khiếu nại của bà Trần Thị P là không có cơ sở.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 123/2024/HC-ST ngày 16 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã quyết định:

Căn cứ khoản 1 Điều 30; Điều 32; Điều 157; điểm a khoản 2 Điều 193; Điều 194, Điều 348 Luật Tố tụng hành chính năm 2015; Điều 62; 66, 69, 71, 75, 76 Luật Đất đai năm 2013; khoản 1 Điều 18; khoản 2 Điều 21, Điều 27, Điều 29, Điều 30, Điều 31 Luật Khiếu nại; Điều 32 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị P về việc đề nghị:

- Huỷ Quyết định số 104a/QĐ-UBND ngày 26/01/2018 của Ủy ban nhân dân quận H, thành phố Hải Phòng về việc phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ giải phóng mặt bằng thu hồi đất thực hiện Dự án xây dựng chợ đầu mối rau, quả tại phường S, quận H (đợt 2) và Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư GPMB thực hiện dự án chợ đầu mối rau quả tại phường S, quận H ngày 24/10/2017 và bồi thường về đất ở đối với diện tích 291,47m², bồi thường 100% tài sản trên đất, bố trí đất tái định cư; chi trả các khoản hỗ trợ khi thu hồi đất.

- Huỷ Quyết định số 2161/QĐ-UBND ngày 16/11/2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận H, thành phố Hải Phòng về việc giải quyết khiếu nại của bà Trần Thị P, địa chỉ: Tổ K, phường S, quận H, thành phố Hải Phòng (lần đầu).

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, người khởi kiện là bà Trần Thị P có đơn kháng cáo với nội dung kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và nội dung kháng cáo, đề nghị HĐXX phúc thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà.

Người bị kiện vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội, sau khi phân tích tài liệu có trong hồ sơ có ý kiến thể hiện: Tòa án sơ thẩm bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị P là đúng quy định. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Trần Thị P không xuất trình được tài liệu mới bảo vệ cho nội dung kháng cáo nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính, không chấp nhận kháng cáo của bà Trần Thị P, giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của đương sự, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân dân cấp cao tại Hà Nội, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về quyền khởi kiện, đối tượng, thẩm quyền và thời hiệu giải quyết vụ án:

Quyết định số 104a/QĐ-UBND ngày 26/01/2018 của UBND quận H về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng thu hồi đất thực hiện Dự án xây dựng chợ đầu mối rau, quả tại phường S, quận H (Đ); Quyết định số 2161/QĐ-UBND ngày 16/11/2023 của Chủ tịch UBND quận H về việc giải quyết khiếu nại (lần đầu), nên là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền và trong thời hiệu khởi kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 30, khoản 4 Điều 32, khoản 1 Điều 115 và điểm a khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.

[1.2] Tại phiên tòa phúc thẩm, người bị kiện đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 4 Điều 225 Luật Tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử quyết định giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

[2] Bản án sơ thẩm xác định về đối tượng khởi kiện, thời hiệu khởi kiện, về quyết định hành chính liên quan, về tư cách những người tham gia tố tụng trong vụ án đúng quy định pháp luật. Việc chứng minh, thu thập chứng cứ đã được thực hiện đầy đủ và đúng theo quy định tại chương VI Luật Tố tụng hành chính. Đơn kháng cáo của người khởi kiện trong hạn luật định nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[3] Về nội dung: Bản án sơ thẩm đã đánh giá tính hợp pháp của văn bản hành chính bị khiếu kiện, theo đó:

[3.1] Quyết định số 104a/QĐ-UBND ngày 26/01/2018 của UBND quận H về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng thu hồi đất thực hiện Dự án xây dựng chợ đầu mối rau, quả tại phường S, quận H (Đ); Quyết định số 2161/QĐ-UBND ngày 16/11/2023 của Chủ tịch UBND quận H về việc giải quyết khiếu nại (lần đầu) được ban hành đúng trình tự, thẩm quyền.

[3.2] Về diện tích đất bị thu hồi:

Theo hồ sơ địa chính phường Sở Dầu lưu giữ; trích lục nguồn gốc sử dụng đất ngày 30/9/2017 do UBND phường S kết hợp với Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai quận H lập, phòng Tài nguyên và Môi trường thẩm định và được UBND quận phê duyệt xác định: Hộ bà Trần Thị P sử dụng tổng diện tích là 291,47m² thuộc các thửa: thửa số 8 tờ bản đồ số 39, thửa số 26 tờ bản đồ số 31, thửa số 6, tờ bản đồ số 32, thửa số 13 tờ bản đồ số 40 thuộc BĐĐC phường Sở Dầu là đất ao (nuôi trồng thủy sản) và đất hoang do UBND phường S quản lý. Hộ ông Bùi Hữu Thứ T1 sử dụng diện tích đất này vào mục đích trồng cây hàng năm từ sau năm 1985. Đến sau năm 1995, ông T tiếp tục san lấp và chuyển nhượng cho bà Trần Thị P (không có xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền). Bà Trần Thị P sử dụng vào mục đích trồng cây hàng năm từ đó đến nay.

Tại khoản 4 Điều 11 Luật đất đai năm 2013 quy định “Đối với trường hợp không có giấy tờ quy định tại các khoản 1,2 và 3 Điều này thì việc xác định loại đất thực hiện theo quy định của Chính Phủ”. Tại khoản 1 Điều 2 Nghị định 01/2017/NĐ-CP của Chính Phủ sửa đổi, bổ sung một số Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai quy định “Trường hợp đang sử dụng đất do lấn, chiếm, chuyển mục đích sử dụng đất trái phép thì căn cứ vào nguồn gốc, quá trình quản lý, sử dụng đất để xác định loại đất”.

Mặc dù, quá trình sử dụng thửa đất bà P có nộp thuế đất. Tuy nhiên, thông tin kê khai thuế là do người sử dụng đất tự kê khai và việc bà P nộp thuế đất không phải là căn cứ để công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp của người nộp đối với đất được xác định là lấn chiếm theo quy định tại khoản 7 Điều 7 Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp năm 2010.

Do đó, việc Ủy ban nhân dân quận H xác định nguồn gốc, loại đất đối với gia đình bà P là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

[3.3] Về việc bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất:

Như phân tích trên, phần diện tích 291,47m² các thửa: thửa số 8 tờ bản đồ số 39, thửa số 26 tờ bản đồ số 31, thửa số 6, tờ bản đồ số 32, thửa số 13 tờ bản đồ số 40 tại địa chỉ: Tổ K, phường S, quận H, thành phố Hải Phòng do bà Trần Thị P đang sử dụng đứng tên chủ sử dụng trong sổ mục kê là UBND phường S, quận H, Hải Phòng. Do vậy, bà Trần Thị P không đủ điều kiện bồi thường về đất, vật kiến trúc, không được tính toán chi phí còn lại đầu tư vào đất khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo quy định tại Điều 82 và Điều 92, Luật Đất đai năm 2013.

[3.4] Đối với hỗ trợ công trình vật kiến trúc; hỗ trợ khác trên thửa đất bị thu hồi:

Tại Biên bản kiểm kê của UBND quận H có chữ ký của bà Trần Thị P thể hiện trên thửa đất có các cây cối: Dừa ăn quả 03 cây, chuối có buồng 15 cây, chuối to 37 cây, chuối nhỏ 52 cây.

Hộ bà Trần Thị P không đủ điều kiện bồi thường về hoa màu trên đất. Tuy nhiên, căn cứ vào tình hình thực tế, UBND quận H đã vận dụng Công văn số 601/UBND-TH ngày 29/4/2016 của UBND thành phố H đối với các trường hợp không vi phạm hành lang bảo vệ các công trình theo quy định: Công trình vật kiến trúc xây dựng trước ngày 01/7/2004 hỗ trợ 70%; từ ngày 01/7/2004 đến ngày 01/7/2014 hỗ trợ 30% giá trị theo Quyết định 324/QĐ-UBND ngày 05/02/2015 và theo Quyết định số 58/QĐ-UBND ngày 12/01/2015 của UBND thành phố H. Vì vậy, UBND quận H đã hỗ trợ hộ bà Trần Thị Phương 3 giá trị cây cối hoa màu với số tiền 2.196.000 đồng là phù hợp với thực tế và đúng quy định pháp luật.

Ngoài ra, do gia đình bà P có đất bị thu hồi tại Dự án đã có công tôn tạo san lấp mặt bằng. Vì vậy, để tạo điều kiện hỗ trợ thêm cho gia đình bà P, UBND quận H đã đề xuất với Công ty TNHH P1 quan tâm hỗ trợ khác bằng nguồn kinh phí của Công ty. Trên cơ sở đó hộ bà Trần Thị P được Công ty TNHH P1 hỗ trợ thêm số tiền là 174.882.000 đồng. Bà P đã nhận đủ số tiền này. Như vậy, quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình bà P đã được đảm bảo.

[3.5] Về việc cấp đất tái định cư:

Theo Biên bản họp xác minh việc ăn ở thực tế ngày 30/10/2017 của các hộ dân có nhà ở thuộc dự án xây dựng Chợ đầu mối rau, quả tại phường S, xác minh bà Trần Thị P không thuộc trường hợp phải di chuyển chỗ ở nên không đủ điều kiện giao đất có thu tiền sử dụng. Vì vậy, yêu cầu của bà P về việc cấp đất tái định cư không có căn cứ chấp nhận.

Từ những phân tích và đánh giá nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của của bà Trần Thị P là có căn cứ. Tại cấp phúc thẩm người khởi kiện không xuất trình thêm tài liệu chứng cứ mới. Từ đó, Hội đồng xét xử đồng tình với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa, không chấp nhận kháng cáo của bà Trần Thị P.

[4] Về án phí: Kháng cáo không được chấp nhận nên bà Trần Thị P phải chịu án phí hành chính phúc thẩm theo quy định.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12//2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Tuyên xử:

Bác kháng cáo của người khởi kiện bà Trần Thị P; Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 123/2024/HC-ST ngày 16 tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.

2. Về án phí: Bà Trần Thị P phải chịu 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng án phí hành chính phúc thẩm, được đối trừ số tiền tạm ứng án phí bà P đã nộp tại Biên lai thu số 0000735 ngày 11/10/2024 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

57
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực hỗ trợ, đền bù giải phóng mặt bằng khi thu hồi đất và quyết định giải quyết khiếu nại số 65/2025/HC-PT

Số hiệu:65/2025/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 13/02/2025
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;