TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 25/2021/HC-PT NGÀY 21/01/2021 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRÁI PHÁP LUẬT VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI TÀI SẢN DO QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH GÂY RA
Ngày 21 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số: 110/2020/TLPT-HC ngày 05 tháng 02 năm 2020 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính trái pháp luật và bồi thường thiệt hại về tài sản do quyết định hành chính gây ra”.Do Bản án hành chính sơ thẩm số 59/2019/HC-ST ngày 21 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 2082/2020/QĐ-PT ngày 17 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Huỳnh Văn T, sinh năm 1963 (vắng mặt) Địa chỉ: N, khu phố x4, Phường x2, thị xã K tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: Ông Võ Trúc P, sinh năm 1968 (có mặt) Địa chỉ: đường 5, phường L, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người bị kiện: Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Long An (vắng mặt) Địa chỉ: Quốc lộ A Phường 4, thành phố T, tỉnh Long An.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1/ Ông Trương Thanh P1, sinh năm 1979 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp B xã T, thị xã K tỉnh Long An.
2/ Ông Võ Duy L, sinh năm 1971 (vắng mặt)
3/ Bà Phạm Thị Thục D1, sinh năm 1989 (vắng mặt) Cùng địa chỉ: Ấp B xã T, thị xã K tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền của ông L, bà D1: Ông Lê Hùng M1 (vắng mặt)
4/ Ông Võ Văn H2, sinh năm 1971 (có mặt)
5/ Bà Hồ Thị Thanh T2, sinh năm 1970 (vắng mặt) Cùng địa chỉ: ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Long An.
6/ Ông Trần Hữu D3, sinh năm 1966 (có mặt)
7/ Bà Võ Thị S1, sinh năm 1965 (có mặt) Cùng địa chỉ: khu phố X2, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Long An.
- Người kháng cáo: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Võ Duy L, ông Võ Văn H2, ông Trần Hữu D3.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày đề ngày 07/6/2019 và đơn khởi kiện bổ sung đề ngày 14/8/2019 và phần trình bày của người khởi kiện ông Huỳnh Văn T tại phiên tòa sơ thẩm như sau:
Ông Huỳnh Văn T khởi kiện yêu cầu:
- Hủy các Quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất thuộc thửa 653, tờ bản đồ số 9, đất tọa lạc tại xã T thị xã K, tỉnh Long An của 04 hộ dân là ông Trương Thanh P1; ông Võ Duy L và bà Phạm Thị Thục D1; ông Võ Văn H2 và bà Hồ Thị Thanh T2; ông Trần Hữu D3 và bà Võ Thị S1.
- Buộc Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Long An bồi thường cho ông Huỳnh Văn T số tiền 46.840.000 đồng.
Với lý do: Năm 2005, ông Huỳnh Văn T nhận chuyển nhượng phần đất của ông Lê Văn T4 là đất trồng tràm ở ấp B (nay là ấp B), xã T, huyện M (nay là thị xã K), tỉnh Long An. ông T được UBND huyện M cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt GCNQSDĐ) số AB 531305 vào ngày 05/01/2005 với số thửa 653, diện tích 2000 m2 thuộc tờ bản đồ số 9, có tứ cận rõ ràng, có phần diện tích đã chừa hành lang lộ giới. Cũng trong năm 2005, ông T đã chuyển nhượng một phần đất cho hộ bà Nguyễn Thị N3 và bà Võ Thị Phương Chi. Bà Na và bà Chi cũng đã được cấp GCNQSDĐ. Tháng 8/2018, khi ông T làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại UBND xã T thì ông mới phát hiện thửa đất của ông đã bị Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Long An cấp Giấy cho 04 hộ dân:
- Ông Trương Thanh P1, sinh năm 1979; Địa chỉ: Ấp B xã T, thị xã K tỉnh Long An.
-Ông Võ Duy L, sinh năm 1971 và bà Phạm Thị Thục D1, sinh năm 1989;Cùng địa chỉ: Ấp B xã T, thị xã K tỉnh Long An.
- Ông Võ Văn H2, sinh năm 1971 và bà Hồ Thị Thanh T2, sinh năm 1970;Cùng địa chỉ: ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Long An.
- Ông Trần Hữu D3, sinh năm 1966 và bà Võ Thị S1, sinh năm 1965;Cùng địa chỉ: khu phố x2, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Long An.
Hành vi của Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Long An đã gây thiệt hại cho ông T với các chi phí sau: Phí tư vấn luật sư 20.000.000 đồng, phí đơn từ, đi lại là 20.000.000 triệu đồng, phí tổn thất sức khỏe và tinh thần là 6.840.000 đồng. Tổng cộng số tiền ông T yêu cầu Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Long An bồi thường là 46.840.000 đồng.
Giám đốc Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Long An có văn bản số 4409/STNMT-VPĐKĐĐ ngày 08/11/2019 về việc ý kiến với với yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn T với có nội dung như sau:
Liên quan đến vụ án, người khởi kiện có yêu cầu: Hủy các quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất thuộc thửa 653, tờ bản đồ số 9, đất tọa lạc tại xã T, thị xã K, tỉnh Long An của 04 hộ dân là ông Trương Thanh P1; ông Võ Duy L, bà Phạm Thị Thục D1; ông Võ Văn H2, bà Hồ Thanh Thúy; ông Trần Hữu D3, bà Võ Thị S1.
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An có ý kiến như sau:
1. Ông Lê Văn T4 được UBND huyện M (nay là thị xã K) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số L 455817 ngày 05/11/1997, gồm 12 thửa đất, tổng diện tích 84.076 m2, trong đó có thửa đất số 209, tờ bản đồ số 9, đất tọa lạc tại xã T, huyện M, tỉnh Long An.
- Ngày 30/12/2004, ông Lê Văn T4 lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Huỳnh Văn T một phần thửa đất số 209 (số thửa mới: 653), tờ bản đồ số 9, diện tích 2.000m2. Ông Huỳnh Văn T được UBND huyện M (nay là thị xã K) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 531305 ngày 05/01/2005.
- Ngày 03/3/2005, ông Huỳnh Văn T lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị N3 một phần thửa đất số 653 (số thửa mới: 654), tờ bản đồ số 9, diện tích 166m2. Bà Nguyễn Thị N3 được UBND huyện M (nay là thị xã K) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 584424 ngày 24/3/2005.
- Ngày 03/3/2005, ông Huỳnh Văn T lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Phương C2 một phần thửa đất số 653 (số thửa mới: 655), tờ bản đồ số 9, diện tích 162,8m2. Bà Nguyễn Thị Phương C2 được UBND huyện M (nay là thị xã K) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 584423 ngày 24/3/2005.
2. Năm 2018, ông Lê Văn T4 đăng ký cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CN 333096 ngày 29/3/2018, gồm 05 thửa đất, tổng diện tích 45.678 m2, trong đó có thửa đất số 209, tờ bản đồ số 9, diện tích còn lại 12.606 m2, đất tọa lạc tại xã T, thị xã K, tỉnh Long An.
- Ngày 06/6/2018, ông Lê Văn T4 lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Võ Duy L, bà Phạm Thị Thục D1 một phần thửa đất số 209 (số thửa mới: 986), tờ bản đồ số 9, diện tích 1.002m2. Ông Võ Duy L, bà Phạm Thị Thục D1 được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CN 333995 ngày 04/7/2018.
- Ngày 06/6/2018, ông Lê Văn T4 lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Võ Văn H2, bà Hồ Thị Thanh T2 một phần thửa đất số 209 (số thửa mới: 987), tờ bản đồ số 9, diện tích 1.426 m2. Ông Võ Văn H2, bà Hồ Thanh Thúy được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CN 333992 ngày 04/7/2018.
- Ngày 06/6/2018, ông Lê Văn T4 lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Trần Hữu D3, bà Võ Thị S1 một phần thửa đất số 209 (số thửa mới: 988), tờ bản đồ số 9, diện tích 1.560 m2. Ông Trần Hữu D3, bà Võ Thị S1 được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CN 333993 ngày 04/7/2018.
- Ngày 06/6/2018, ông Lê Văn T4 lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho ông Trương Thanh P1 một phần thửa đất số 209 (số thửa mới: 984), tờ bản đồ số 9, diện tích 1.479 m2. Ông Trần Hữu D3, bà Võ Thị S1 được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CN 333994 ngày 04/7/2018.
Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông Lê Văn T4 cho ông Huỳnh Văn T và từ ông Huỳnh Văn T cho bà Nguyễn Thị N3, bà Nguyễn Thị Phương C2 đều có đo đạc, lập trích đo địa chính. Tuy nhiên, việc cập nhật, chỉnh lý biến động lên bản đồ địa chính không đúng với vị trí khu đất đã trích đo chuyển quyền. Đến năm 2018, ông Lê Văn T4 tiếp tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho 04 hộ dân (ông Võ Duy L, bà Phạm Thị Thục D1; ông Võ Văn H2, bà Hồ Thanh Thúy; ông Trần Hữu D3, bà Võ Thị S1; ông Trương Thanh P1) tại vị trí đã chuyển nhượng cho ông Huỳnh Văn T. Tháng 8/2018, ông Huỳnh Văn T có đề nghị đo đạc để tiếp tục chuyển quyền sử dụng đất phần còn lại thửa đất số 653, tờ bản đồ số 9, thì mới phát hiện ra phần đất ông Huỳnh Văn T đề nghị đo đạc chuyển quyền đã bị cấp trùng cho 04 hộ dân nêu trên.
Vì vậy, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 04 hộ dân (ông Võ Duy L, bà Phạm Thị Thục D1; ông Võ Văn H2, bà Hồ Thanh Thúy; ông Trần Hữu D3, bà Võ Thị S1; ông Trương Thanh P1) là chưa phù hợp theo quy định của pháp luật (cấp trùng vị trí đất của ông Huỳnh Văn T, bà Nguyễn Thị N3, bà Nguyễn Thị Phương C2). Tuy nhiên, việc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của 04 hộ nêu trên không thuộc các trường hợp thu hồi Giấy chứng nhận theo quy định tại Khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai năm 2013.
Đối với yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn T, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử theo quy định pháp luật.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 59/2019/HC-ST ngày 21 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã quyết định như sau:
Căn cứ điểm b Khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính; Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn T.
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CN 333995 ngày 04/7/2018 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp ông Võ Duy L, bà Phạm Thị Thục D1.
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CN 333992 ngày 04/7/2018do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp cho ông Võ Văn H2, bà Hồ Thanh Thúy.
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CN 333993 ngày 04/7/2018 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp cho ông Trần Hữu D3, bà Võ Thị S1.
Căn cứ điểm b, Khoản 1 Điều 143 Luật tố tụng hành chính 2015, khoản 2 Điều 165 Luật tố tụng hành chính.
Đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn T về việc hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CN 333994 ngày 04/7/2018 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp cho ông Trương Thanh P1.
Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 217 Luật tố tụng dân sự 2015.
Đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn T về việc buộc Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Long An bồi thường cho ông Huỳnh Văn T số tiền 46.840.000 đồng.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí sơ thẩm, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 16/12/2019 những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan gồm: Ông Võ Văn H2, ông Võ Duy L, ông Trần Hữu D3 có đơn kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác yêu cầu khởi kiện của ông T.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Đại diện theo ủy quyền của ông Võ Duy L vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và trình bày: Việc chuyển nhượng đất từ ông T4 sang vợ chồng ông L là hợp pháp. Khi chuyển nhượng đất cho ông T thì vợ ông T4 còn sống nhưng chỉ có mỗi ông T4 ký vào hợp đồng chuyển nhượng là không đúng, hiện nay bản thân ông T4 cũng không thừa nhận có ký hợp đồng chuyển nhượng 22/10/2004. Chữ ký của ông T4 trong hợp đồng và trong biên bản giáp ranh không giống nhau. Tòa án sơ thẩm không đưa ông T4 tham gia tố tụng là không đúng. Đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Võ Văn H2, ông Trần Hữu D3 đồng ý với lời trình bày của đại diện theo ủy quyền của ông L, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các đương sự.
Đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, không đồng ý yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm. Người bị kiện vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh nêu quan điểm giải quyết vụ án:
Về thủ tục tố tụng Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã tiến hành đúng theo quy định của luật tố tụng hiện hành, không làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Xét về nội dung vụ án: Căn cứ văn bản của Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Long An thì các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông T4 với những người liên quan không hợp pháp vì không có kiểm tra thực địa, việc phê duyệt hồ sơ cấp giấy đã có sự chồng lấn lên đất của ông T. Bản án sơ thẩm đã xét xử là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Đơn kháng cáo của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan làm trong thời hạn luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm. Tại phiên tòa phúc thẩm, người bị kiện vắng mặt đã được triệu tập hợp lệ. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Luật Tố tụng hành chính tiến hành xét xử vụ án.
[2] Nội dung vụ án:
Ông Huỳnh Văn T khởi kiện với các yêu cầu:
- Hủy các Quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất thuộc thửa 653, tờ bản đồ số 9, đất tọa lạc tại xã T thị xã K, tỉnh Long An của 04 hộ dân là ông Trương Thanh P1; ông Võ Duy L và bà Phạm Thị Thục D1; ông Võ Văn H2 và bà Hồ Thị Thanh T2; ông Trần Hữu D3 và bà Võ Thị S1.
- Buộc Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Long An bồi thường cho ông Huỳnh Văn T số tiền 46.840.000 đồng.
Người khởi kiện cho rằng phần đất tại ấp B (nay là ấp B) xã T, huyện M (nay là thị xã K), tỉnh Long An là do ông nhận chuyển nhượng từ ông Lê Văn T4 vào năm 2005, đã được Uỷ ban nhân dân huyện M cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sau đó ông T có chuyển nhượng một phần đất cho bà Nguyễn Thị N3 và bà Võ Thị Phương C2. Năm 2018 Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Long An tiếp tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất trên cho 04 hộ dân là gây ảnh hưởng đến quyền lợi của ông T. Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Huỳnh Văn T rút lại các yêu cầu về việc hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CN 333994 ngày 04/7/2018 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp cho ông Trương Thanh P1 và buộc Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Long An bồi thường cho ông Huỳnh Văn T số tiền 46.840.000 đồng.
Người bị kiện Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Long An trình bày việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 04 hộ dân (ông Võ Duy L, bà Phạm Thị Thục D1; ông Võ Văn H2, bà Hồ Thị Thanh T2; ông Trần Hữu D3, bà Võ Thị S1; ông Trương Thanh P1) là chưa phù hợp theo quy định của pháp luật (cấp trùng vị trí đất của ông Huỳnh Văn T, bà Nguyễn Thị N3, bà Nguyễn Thị Phương C2) nên đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.
[3] Xét kháng cáo của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
[3.1] Ông Lê Văn T4 được Uỷ ban nhân dân huyện M (nay là thị xã K) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số L 455817 ngày 05/11/1997, gồm 12 thửa đất, tổng diện tích 84.076 m2, trong đó có thửa đất số 209, tờ bản đồ số 9, đất tọa lạc tại xã T, huyện M, tỉnh Long An.
Ngày 30/12/2004, ông Lê Văn T4 lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Huỳnh Văn T một phần thửa đất số 209 (số thửa mới: 653), tờ bản đồ số 9, diện tích 2.000m2. Ông Huỳnh Văn T được Uỷ ban nhân dân huyện M (nay là thị xã K) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 531305 ngày 05/01/2005. Ngày 06/6/2018, ông Lê Văn T4 lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho 03 hộ dân gồm ông Võ Duy L và bà Phạm Thị Thục D1, Võ Văn H2 và bà Hồ Thanh Thúy, Trần Hữu D3 và bà Võ Thị S1. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các ông bà trên.
[3.2] Xét thấy, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông Lê Văn T4 cho ông Huỳnh Văn T và từ ông Huỳnh Văn T cho bà Nguyễn Thị N3, bà Nguyễn Thị Phương C2 đều có đo đạc, lập trích đo địa chính. Tuy nhiên, việc cập nhật, chỉnh lý biến động lên bản đồ địa chính không đúng với vị trí khu đất đã trích đo chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Đến năm 2018, ông Lê Văn T4 tiếp tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho 03 hộ dân (ông Võ Duy L và bà Phạm Thị Thục D1; ông Võ Văn H2 và bà Hồ Thanh Thúy; ông Trần Hữu D3 và bà Võ Thị S1) tại vị trí đã chuyển nhượng cho ông Huỳnh Văn T. Tháng 8/2018, ông Huỳnh Văn T có đề nghị đo đạc để tiếp tục chuyển quyền sử dụng đất phần còn lại thửa đất số 653, tờ bản đồ số 9, thì mới phát hiện ra phần đất ông Huỳnh Văn T đề nghị đo đạc chuyển quyền đã bị cấp trùng cho 03 hộ dân nêu trên. Như vậy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Lê Văn T4 với 03 hộ dân nói trên là không hợp pháp bởi vì không kiểm tra thực địa, việc phê duyệt hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An đã chồng lấn lên phần đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông T là trái quy định Luật đất đai. Do đó, yêu cầu khởi kiện của ông T là có căn cứ chấp nhận.
[4] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử là có căn cứ. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có kháng cáo nhưng không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh. Do vậy, Hội đồng xét xử thống nhất quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, không chấp nhận kháng cáo của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Do kháng cáo không được chấp nhận nên người có kháng cáo phải chịu án phí hành chính phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính, I/Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Võ Văn H2, ông Võ Duy L, ông Trần Hữu D3; giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm số 59/2019/HC-ST ngày 21/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.
Căn cứ điểm b Khoản 2 Điều 193; điểm b, Khoản 1 Điều 143; khoản 2 Điều 165 Luật tố tụng hành chính; điểm c Khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng Dân sự 2015, Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn T.
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CN 333995 ngày 04/7/2018 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp ông Võ Duy L, bà Phạm Thị Thục D1.
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CN 333992 ngày 04/7/2018 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp cho ông Võ Văn H2, bà Hồ Thị Thanh T2.
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CN 333993 ngày 04/7/2018 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp cho ông Trần Hữu D3, bà Võ Thị S1.
2. Đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn T về việc hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CN 333994 ngày 04/7/2018 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Long An cấp cho ông Trương Thanh P1.
3. Đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Văn T về việc buộc Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Long An bồi thường cho ông Huỳnh Văn T số tiền 46.840.000 đồng.
II/Án phí hành chính phúc thẩm: Ông Võ Duy L, ông Trần Hữu D3, ông Võ Văn H2 mỗi người phải chịu 300.000 đồng, được trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí theo các biên lai thu số 0000709, 0000710, 0000711 cùng ngày 16/12/2019 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Long An.
Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trái pháp luật và bồi thường thiệt hại tài sản do quyết định hành chính gây ra số 25/2021/HC-PT
Số hiệu: | 25/2021/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 21/01/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về