Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính số 102/2023/HC-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 102/2023/HC-ST NGÀY 22/08/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH

Trong ngày 22 tháng 8 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử sơ thẩm vụ án hành chính thụ lý số 161/2023/TLST-HC ngày 13 tháng 6 năm 2023 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 147/2023/QĐXXST-HC ngày 03 tháng 8 năm 2023 giữa:

1. Người khởi kiện: Bà Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1960; Địa chỉ: Số E N, Phường B, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Người bị kiện: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L.

Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện: Ông Nguyễn Văn T1 – Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L. (Văn bản số 6045/STNMT- VPĐKĐĐ ngày 09/8/2023)

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Bà Nguyễn Thị Anh T2 – Viên chức Văn phòng đăng ký đất đai trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L (Văn bản cử người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp số 6045/STNMT-VPĐKĐĐ ngày 09/8/2023).

(Bà Nguyễn Ngọc T, bà Nguyễn Thị Anh T2 có mặt; Ông Nguyễn Văn T1 có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo đơn khởi kiện và tại phiên tòa, người khởi kiện – bà Nguyễn Ngọc T trình bày:

Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 751136 cho bà Nguyễn Ngọc T ngày 15/11/2018 đối với thửa đất 3033, tờ bản đồ số 3, diện tích 5000m2 và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 751137 ngày 15/11/2018 đối với thửa đất 769, tờ bản đồ số 3, diện tích 7431m2 cùng tọa lạc tại xã H, huyện Đ, tỉnh Long An dựa trên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Phương T3, Huỳnh Thị Q và bà Nguyễn Ngọc T.

Đầu năm 2023 bà Nguyễn Ngọc T mới phát hiện thửa đất bà sử dụng là thửa đất số 694, bà T không sử dụng thửa đất số 3033 và 769.

Do đó bà Nguyễn Ngọc T khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Long An hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 751136 và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 751137 do Sở T cấp cho bà Nguyễn Ngọc T ngày 15/11/2018 đối với thửa đất 3033, thửa đất 769, tờ bản đồ số 3, cùng tọa lạc tại xã H, huyện Đ, tỉnh Long An.

Tại Văn bản số 6047/STNMT-VPĐKĐĐ ngày 09/8/2023 của người bị kiện – Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L trình bày:

Sở T ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho bà Nguyễn Ngọc T số phát hành CP751136 ngày 15/11/2018 và số phát hành CP 751137 ngày 15/11/2018 trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Phương T3, bà Huỳnh Thị Q với bà Nguyễn Ngọc T đối với thửa đất số 3033, thửa đất 769, tờ bản đồ số 3, tọa lạc tại xã H, huyện Đ, tỉnh Long An là đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục theo quy định.

Đối với yêu cầu của người khởi kiện, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo đúng quy định pháp luật.

Tại phiên tòa người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L – bà Nguyễn Thị Anh T2 trình bày: Thống nhất theo nội dung tại Văn bản số 6047/STNMT-VPĐKĐĐ ngày 09/8/2023 của người bị kiện – Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L. Qua kiểm tra thửa đất số 3033 và thửa 769, tờ bản đồ số 3 cấp cho bà T nhưng trên thực tế bà T sử dụng thửa đất số 694. Tuy nhiên, do giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp thông qua chuyển nhượng nên theo quy định tại Điều 106 Luật Đất đai thì không thuộc thẩm quyền giải quyết của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu quan điểm:

Trong quá trình thụ lý, xét xử, Tòa án tuân thủ đúng theo quy định Luật Tố tụng Hành chính.

Về nội dung vụ án: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 751136 và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 751137 cho bà Nguyễn Ngọc T ngày 15/11/2018 đối với các thửa đất 3033, thửa 769, tờ bản đồ số 3, tọa lạc tại xã H, huyện Đ, tỉnh Long An dựa trên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Phương T3, bà Huỳnh Thị Q với bà Nguyễn Ngọc T.

Căn cứ biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 24/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An thể hiện bà Nguyễn Ngọc T đang quản lý sử dụng thửa đất số 694, tại ấp A, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An, bà T đang trồng lúa.

Căn cứ Tờ trình số 23/TTr-UBND ngày 23/3/2023 của Ủy ban nhân dân xã H đề nghị Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà Nguyễn Ngọc T đối với thửa 3033 và 769. Lý do hủy là thửa 3033, 769 cấp sai vị trí đất và số thửa.

Ngoài ra bà Nguyễn Ngọc T cũng xác định bà không sử dụng các thửa đất số 3033 và thửa 769, tờ bản đồ số 3.

Như vậy việc Sở TN-MT tỉnh L cấp quyền sử dụng đất cho bà T đối với thửa 3033 và thửa đất 769, tờ bản đồ số 3 nêu trên là không đúng vị trí, đối tượng sử dụng đất, do đó yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Ngọc T là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Ngọc T.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu chứng cứ, ý kiến của những người tham gia tố tụng và ý kiến Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về đối tượng khởi kiện và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Bà Nguyễn Ngọc T khởi kiện Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L yêu cầu Tòa án tỉnh Long An hủy 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 751136 và CP 751137 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp cho bà Nguyễn Ngọc T cùng ngày 15/11/2018, đây là khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 30, khoản 4 Điều 32 Luật Tố tụng Hành chính.

[2]. Về thủ tục tố tụng:

Trong quá trình giải quyết vụ án, do người bị kiện yêu cầu giải quyết vắng mặt suốt quá trình tố tụng, người khởi kiện có đơn yêu cầu không đối thoại nên nên Tòa án đã tiến hành lập biên bản không thể tiến hành đối thoại được theo quy định tại Điều 135 Luật Tố tụng Hành chính. Do người bị kiện yêu cầu giải quyết vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại Điều 158 Luật Tố tụng Hành chính.

[3]. Về thời hiệu khởi kiện:

Ngày 15/11/2018 Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 751136 và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 751137 cho bà Nguyễn Ngọc T đối với thửa 3033, thửa 769, tờ bản đồ số 3, cùng tọa lạc tại xã H, huyện Đ, tỉnh Long An dựa trên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Phương T3, bà Huỳnh Thị Q với bà Nguyễn Ngọc T.

Đầu năm 2023 bà Nguyễn Ngọc T mới phát hiện bà không sử dụng thửa đất số 3033 và thửa 769 mà bà sử dụng là thửa đất số 694. Do đó ngày 22/5/2023 bà Nguyễn Ngọc T nộp đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân tỉnh Long An là trong thời hạn 01 năm, nên còn thời hiệu theo quy định tại khoản 2, Điều 116 Luật Tố tụng Hành chính.

[4]. Về thẩm quyền ban hành quyết định hành chính:

Ngày 15/11/2018 Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 751136, số CP 751137 cho bà Nguyễn Ngọc T đối với thửa đất 3033, 769 tờ bản đồ số 3, tọa lạc tại xã H, huyện Đ, tỉnh Long An dựa trên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Phương T3, bà Huỳnh Thị Q với bà Nguyễn Ngọc T là đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền theo quy định tại Điều 105 Luật Đất đai 2013.

[5]. Về nội dung của quyết định hành chính:

Ngày 09/8/2018 bà Nguyễn Thị Phương T3 cùng chồng là ông Trần Minh T4 chuyển nhượng thửa đất 3033, tờ bản đồ số 3 cho bà Nguyễn Ngọc T, cùng ngày 09/8/2018 bà Huỳnh Thị Q cùng chồng là ông Lê Văn T5 chuyển nhượng diện tích đất còn lại 7431 m2 của thửa đất số 769, loại đất trồng lúa cho bà T và bà Nguyễn Ngọc T được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành CP 751136, CP 751137 cùng ngày 15/11/2018.

Tuy nhiên khi cấp giấy chứng nhận quyền quyền sử dụng đất bà T thông qua hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L chỉ dựa trên hồ sơ địa chính, không đo đạc, không kiểm tra hiện trạng sử dụng đất là có sai sót.

Bà T được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 3033 và thửa 769, nhưng thực tế bà Nguyễn Ngọc T đang quản lý sử dụng thửa đất số 694, tờ bản đồ số 3, tại xã H, huyện Đ, tỉnh Long An, bà T đang trồng lúa. Nội dung này được chứng minh qua lời khai bà T, Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ của Tòa án nhân dân tỉnh Long An ngày 24/7/2023 và Tờ trình số 23/TTr -UBND ngày 23/3/2023 của Ủy ban nhân dân xã H.

[6]. Từ các căn cứ trên cho thấy Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 751136 và CP 751137 cho bà Nguyễn Ngọc T đối với thửa đất 769, tờ bản đồ số 3, diện tích 7431m2 và thửa đất 3033, tờ bản đồ số 3, diện tích 5000m2, cùng tọa lạc tại ấp A, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An không đúng vị trí, đối tượng sử dụng đất là trái với quy định tại Điều 99, Điều 100, Điều 166 Luật Đất đai 2013, nên yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Ngọc T là có căn cứ chấp nhận như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tại phiên tòa.

[7]. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 3.000.000 đồng bà Nguyễn Ngọc T tự nguyện nộp là phù hợp Điều 357, Điều 358 Luật Tố Tụng Hành chính (đã nộp xong).

Về án phí: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L phải án phí hành chính sơ thẩm theo quy định tại Điều 348 Luật Tố tụng Hành chính và Điều 32 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban T6.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 193, Điều 116, Điều 137, Điều 135, Điều 158, Điều 348, Điều 30, Điều 32 Luật Tố tụng Hành chính;

Căn cứ Điều 99, Điều 100, Điều 166 Luật Đất đai năm 2013;

Áp dụng Điều 32 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy Ban T6.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Ngọc T.

Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 751136 do Sở T cấp cho bà Nguyễn Ngọc T ngày 15/11/2018 đối với thửa đất 3033, tờ bản đồ số 3, diện tích 5000m2, tọa lạc tại ấp A, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An.

Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CP 751137 do Sở T cấp cho bà Nguyễn Ngọc T ngày 15/11/2018 đối với thửa đất 769, tờ bản đồ số 3, diện tích 7431m2, tọa lạc tại xã H, huyện Đ, tỉnh Long An.

Bà Nguyễn Ngọc T được quyền đăng ký kê khai để cấp lại quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

2. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Nguyễn Ngọc T chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 3.000.000 đồng. (đã nộp xong).

3. Về án phí: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hành chính sơ thẩm. Hoàn trả cho bà Nguyễn Ngọc T số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0003576 ngày 12/6/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Long An.

4. Án xử sơ thẩm công khai, các đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính số 102/2023/HC-ST

Số hiệu:102/2023/HC-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Long An
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 22/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;