TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 83/2024/HC-ST NGÀY 16/08/2024 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH, HÀNH VI HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC THU HỒI ĐẤT, BỒI THƯỜNG GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG
Ngày 16 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 79/2024/TLST-HC ngày 13 tháng 5 năm 2024 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 110/2024/QĐXXST-HC ngày 17 tháng 7 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 130/QĐST-HC ngày 02 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
1.Người khởi kiện: Ông Phạm Ngọc Ngh, sinh năm 1984; trú tại: Thôn Đ, xã Hoa Đ, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng; vắng mặt
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: Ông Phạm Trung K, sinh năm 1986; địa chỉ: xã Đông S, huyện Thủy Ng, thành phố Hải Ph (theo Hợp đồng ủy quyền ngày 18/6/2024 tại Văn phòng công chứng Trần Thành Đ); có mặt.
2. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện Thủy Ng, thành phố Hải Ph; địa chỉ: Số 5 Đà N, thị trấn Núi Đ, huyện Thuỷ Ng, thành phố Hải Ph.
Người đại diện hợp pháp của người bị kiện: Ông Nguyễn Văn V–Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện Thủy Ng, thành phố Hải Ph (là người được ủy quyền theo Quyết định về việc ủy quyền tham gia tố tụng số 3832/QĐ-UBND ngày 24/5/2024 của UBND huyện Thủy Ng, thành phố Hải Ph); vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện (Văn bản số 1505/UBND-VP ngày 24/5/2024 v/v đăng ký người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự):
- Ông Đào Văn N - Phó Trưởng phòng - Phòng Tài nguyên và Môi trường UBND huyện Thủy Ng, thành phố Hải Ph; vắng mặt.
- Ông Nguyễn Văn H – Phó Giám đốc Trung tâm phát triển quỹ đất UBND Thủy Ng, thành phố Hải Ph; có mặt
- Ông Đào Văn T - Chủ tịch UBND xã Hoa Đ, huyện Thuỷ Ngu, thành phố Hải Ph; vắng mặt
- Bà Lê Thị H - Chuyên viên Phòng Tài Nguyên và Môi Trường UBND huyện Thủy Ng, thành phố Hải Ph; có mặt.
- Ông Lưu Văn A và ông Đỗ Hồng L - Nhân viên Trung tâm phát triển quỹ đất UBND huyện Thủy Ng, thành phố Hải Ph; ông An vắng mặt, ông Long có mặt.
- Bà Nguyễn Lệ Q - Công chức Địa chính - Xây dựng UBND xã An L huyện Thủy Ng, thành phố Hải Ph; có mặt.
Những người có quyền lợi, Ngh vụ liên quan: Ông Phạm Hữu Ch , sinh năm 1961; bà Đặng Thị Đ, sinh năm 1964; chị Phạm Thị X, sinh năm 1991; cùng cư trú tại: Thôn Đầm Đ, xã Hoa Đ, huyện Thủy Ng, thành phố Hải Ph; đều vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, người khởi kiện là ông Phạm Ngọc Ngh thống nhất trình bày: Ông Ngh không đồng ý với Phương án bồi thường hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất để thực hiện Dự án Khu đô thị mới Hoàng Huy GR tại xã Hoa Đ, Thủy Ng, Hải Ph số 37/PA-TCT ban hành kèm theo Quyết định 2510/QĐ-UBND ngày 04/04/2023 với Phương an bồi thường hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện Dự án Khu đô thị mới Hoàng Huy GR tại xã Hoa Đ, Thủy Ng, Hải Ph số 30/PA-TCT ban hành kèm theo Quyết định số 3423/QĐ-UBND ngày 24/4/2023 của UBND huyện Thủy Ng vì các lý do sau:
- Không đồng ý về Quy trình thủ tục tiến hành lập phương án đền bù hỗ trợ, ban hành quyết định thu hồi đất ở để thực hiện dự án, cụ thể:
+ Sau khi kiểm kê xong, UBND chỉ hoàn thiện dự thảo đền bù bằng tiền đến người dân mà không có phần dự thảo về quyền lợi tái định cư và không niêm yết công khai dự thảo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư tại trụ sở UBND cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu dân cư nơi có đất thu hồi, không lấy ý kiến người dân về phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Điều này thể hiện UBND huyện Thủy Ng đã vi phạm khoản 2 Điều 69 Luật Đất đai 2013.
+ Sau khi ông Ngh nhận được Phương án bồi thường hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất để thực hiện Dự án Khu đô thị mới Hoàng Huy GR tại xã Hoa Đ, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng số 37/PA-TCT ban hành kèm theo Quyết định 2510/QĐ-UBND ngày 04/04/2023 với Phương án bồi thường hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện Dự án Khu đô thị mới Hoàng Huy GR tại xã Hoa Đ, Thủy Ng, Hải Ph số 30/PA-TCT ban hành kèm theo Quyết định số 3423/QĐ-UBND ngày 24/4/2023 của UBND huyện Thủy Ng thì tại thời điểm này, UBND huyện cũng mới chỉ ban hành quyết định bồi thường hỗ trợ bằng tiền, không có phương án hỗ trợ tái định cư và cũng chưa tổ chức hội nghị xét duyệt tái định cư khi nhà nước thu hồi đất ở. Điều này thể hiện UBND huyện Thủy Ng đã vi phạm điểm a,b,c khoản 3 Điều 69 Luật Đất đai 2013.
Không đồng ý về nội dung, cụ thể:
+ Gia đình ông Ngh đã sử dụng và nuôi trồng thủy sản trên tổng diện tích là 1991,7m2 tại xã Hoa Đ, huyện Thủy Nguyên. Trong đó, diện tích được UBND xã Hoa Đ ký Hợp đồng là 1954m2 trong đó 522,8m2 sử dụng vào mục đích nuôi trồng thủy sản; 1431,2m2 sử dụng vào mục đích trồng cây lâu năm; 37m2 là diện tích đất gia đình tự ý sử dụng.
+ Năm 2006, sau khi ông Ngh giải ngũ về địa phương đã được bố mẹ giao lại 01 phần diện tích 37m2 đất để ở; 712m2 đất trồng cây lâu năm và 522,8m2 sử dụng vào mục đích nuôi trồng thủy sản; gia đình ông Ngh ăn ở có khuôn viên riêng, hợp đồng sử dụng điện sinh hoạt, nước sinh hoạt riêng. Khi thu hồi đất UBND huyện Thủy Ng xác định diện tích 37m2 là diện tích đất nông nghiệp do UBND xã Hoa Đ quản lý là không đúng.
+ Phần diện tích trồng cây lâu năm của gia đình ông Ngh chưa được bồi thường, hỗ trợ.
+ Việc thực hiện dự án toàn bộ tài sản của gia đình bị thu hồi, gia đình ông Ngh không còn chỗ ở nào khác nhưng UBND huyện Thủy Ng không xét duyệt cấp tái định cư cho gia đình ông Ngh gồm có: Phạm Ngọc Ngh, vợ là Phạm Thị X. Điều này trái với quy định tại khoản 4 Điều 6 Nghị định số 47/2014/NĐ- CP.
Vì các sai phạm nêu trên, nhận thấy quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm nghiêm trọng nên ông Phạm Ngọc Ngh khởi kiện, yêu cầu Tòa án buộc UBND huyện Thủy Nguyên: Sửa đổi quyết định thu hồi và phương án bồi thường đối với phần 37m2 là gia đình tự ý sử dụng vào mục đích để ở từ trước 01/7/2024. Bồi thường bổ sung chi phí đầu tư vào đất trên phần đất trồng cây lâu năm với diện tích 1.431,2m2. Buộc UBND huyện Thuỷ Ng điều chỉnh tỷ lệ bồi thường từ 50% lên 100% giá trị tài sản tạo lập là nhà ở, công trình xây dựng trên diện tích 30m2 được phép xây dựng nhà chòi trên đất nuôi trồng thuỷ sản và 37m2 gia đình tự ý sử dụng. Buộc UBND huyện Thuỷ Ng giải quyết cấp đất có thu tiền sử dụng đất cho gia đình người khởi kiện gồm 4 nhân khẩu. Buộc UBND huyện Thuỷ Ng bồi thường thiệt hại phần chi phí tạm lánh (thuê nhà) trong thời gian 18 tháng với số tiền là 90.000.000 (chín mươi triệu) đồng.
Quan điểm của Uỷ ban nhân dân huyện Thủy Nguyên: Việc thu hồi đất, phương án bồi thường, hỗ trợ đối với diện tích đất đã thu hồi đã được thực hiện đúng quy định pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích của gia đình ông Phạm Hữu Ch (bố đẻ ông Phạm Ngọc Ngh) nên đề nghị Tòa án không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Ngọc Ngh.
Tại phiên tòa:
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện trình bày như đã trình bày trong đơn của người khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án, ngoài ra còn trình bày bổ sung: Trình tự thủ tục thu hồi đất không thực hiện đúng quy định pháp luật cụ thể, không niêm yết công khai phương án hỗ trợ tái định cư cho người dân được biết; ông Ngh là ngươi ăn ở trên đất từ năm 2006 đến khi thu hồi đất, các công trình vật kiến trúc trên đất là tài sản của ông Ngh, ông Ngh là con trai của ông C (có quan hệ huyết thống); diện tích 37m2 là đất gia đình ông C đã sử dụng từ nhiều năm nay.Vì vậy, giữ nguyên các yêu cầu khởi kiện đã trình bày trong đơn khởi kiện. Đối với yêu cầu khởi kiện buộc UBND huyện Thuỷ Ng bồi thường thiệt hại phần chi phí tạm lánh (thuê nhà) trong thời gian 18 tháng với số tiền là 90.000.000 đồng. Trong quá trình giải quyết vụ án, đối với yêu cầu khởi kiện này người khởi kiện đã có đơn đề nghị bồi thường thiệt hại phần chi phí tạm lánh (thuê nhà) trong thời gian 18 tháng theo quy định của pháp luật. Tại phiên toà, người đại diện theo uỷ quyền của người khởi kiện nhất trí với yêu cầu khởi kiện này của người khởi kiện và không có ý kiến bổ sung.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện trình bày: Các quyết định thu hồi đất, phương án bồi thường đối với ông Phạm Hữu Ch là đúng quy định pháp luật, đã đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của ông Phạm Hữu Ch . Vì vậy, đề nghị Tòa án không chấp nhận các yêu cầu của người khởi kiện.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý đến khi xét xử tại phiên tòa, Thẩm phán, HĐXX và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Luật Tố tụng hành chính. Đối với các đương sự về cơ bản thực hiện đúng quy định pháp luật tố tụng hành chính; người bị kiện và một số người có quyền lợi, Ngh vụ liên quan chấp hành chưa đầy đủ theo Điều 55, Điều 58 Luật Tố tụng hành chính.
Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.
Về án phí: Người khởi kiện phải nộp án phí hành chính sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Tại phiên tòa, các đương sự không bổ sung thêm chứng cứ, tài liệu nào mới. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được Tòa án thu thập có trong hồ sơ vụ án, tiếp tục thẩm tra công khai tại phiên tòa, đồng thời căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ chứng cứ, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng tham gia phiên tòa và các bên đương sự về việc giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử sơ thẩm đánh giá và nhận định về vụ án như sau:
Về thủ tục tố tụng:
[1] Về quyền khởi kiện, thẩm quyền giải quyết và thời hiệu khởi kiện: UBND huyện Thủy Ng ban hành các quyết định: Quyết định số 2503/QĐ-UBND ngày 04/4/2023 về việc thu hồi đất để thực hiện Dự án Khu đô thị mới Hoàng Huy GR tại xã Hoa Đ, huyện Thủy Ng, Quyết định số 2510/QĐ-UBND ngày 04/4/2023 v/v phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện Dự án Khu đô thị mới Hoàng Huy GR tại xã Hoa Đ, huyện Thủy Nguyên, Phương án bồi thường, hỗ trợ số 37/PA-TCT khi Nhà nước thu hồi đất giải phóng mặt bằng, thực hiện Dự án Khu đô thị mới Hoàng Huy GR tại xã Hoa Đ, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng; Quyết định số 3423/QĐ-UBND ngày 24/4/2023 và Quyết định số 4548/QĐ-UBND ngày 29/5/2023 v/v phê duyệt điều chỉnh, bổ sung, phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện Dự án Khu đô thị mới Hoàng Huy GR tại xã Hoa Đ, Thủy Nguyên. Không đồng ý với các phương án bồi thường nêu trên, ông Phạm Ngọc Ngh đã khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc UBND huyện Thủy Nguyên: Sửa đổi quyết định thu hồi và phương án bồi thường đối với phần 37m2 là gia đình tự ý sử dụng vào mục đích để ở từ trước 01/7/2024. Bồi thường bổ sung chi phí đầu tư vào đất trên phần đất trồng cây lâu năm với diện tích 1.431,2m2. Buộc UBND huyện Thuỷ Ngđiều chỉnh tỷ lệ bồi thường từ 50% lên 100% giá trị tài sản tạo lập là nhà ở, công trình xây dựng trên diện tích 30m2 được phép xây dựng nhà chòi trên đất nuôi trồng thuỷ sản và 37m2 gia đình tự ý sử dụng. Buộc UBND huyện Thuỷ Nggiải quyết cấp đất có thu tiền sử dụng đất cho gia đình người khởi kiện gồm 4 nhân khẩu. Buộc UBND huyện Thuỷ Ngbồi thường thiệt hại phần chi phí tạm lánh (thuê nhà) trong thời gian 18 tháng theo quy định của pháp luật. Đối chiếu yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện với các quy định tại khoản 1, 2, 3 Điều 3; Điều 115 Luật Tố tụng hành chính thì người khởi kiện có quyền khởi kiện. Căn cứ khoản 1 Điều 30; Điều 32 Luật Tố tụng hành chính thì yêu cầu khởi kiện nêu trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng. Đơn khởi kiện của ông Phạm Ngọc Ngh đề ngày 04/4/2024 được gửi đến Tòa án ngày 08/4/2024. Căn cứ quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính, yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện còn trong thời hiệu khởi kiện.
[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa, người bị kiện và người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện vắng mặt, những người có quyền lợi, Ngh vụ liên quan vắng; một số người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện có mặt; vắng mặt người khởi kiện, có mặt người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện; phiên tòa đã được hoãn nhiều lần, những người vắng mặt đều đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần. Vì vậy, căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 157, khoản 1 Điều 158 Luật Tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.
Xét tính hợp pháp của các quyết định
[3] Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành quyết định: Dự án Khu đô thị mới Hoàng Huy GR tại xã Hoa Đ, huyện Thủy Ng đã được triển khai thực hiện theo các văn bản và trình tự, thủ tục cụ thể như sau:
[3.1] Nghị Quyết số 41/NQ-HĐND ngày 12/8/2021 của Hội đồng nhân dân thành phố về việc thông qua điều chỉnh, bổ sung danh mục các dự án đầu tư có sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, rừng đặc dụng; danh mục các dự án đầu tư phải thu hồi đất; mức vốn ngân sách nhà nước dự kiến cấp cho việc bồi thường, giải phóng mặt bằng trên địa bàn thành phố năm 2021; Quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác;
[3.2] Nghị Quyết số 31/NQ-HĐND ngày 20/7/2022 của Hội đồng nhân dân thành phố về việc chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa nước từ 02 vụ trở lên để thực hiện Dự án Đầu tư xây dựng Khu đô thị mới tại xã Hoa Đ, huyện Thủy Nguyên;
[3.3] Quyết định số 3979/QĐ-UBND ngày 30/12/2020 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng về chủ trương đầu tư Dự án Khu đô thị mới Hoàng Huy GR tại xã Hoa Đ, huyện Thủy Nguyên;
[3.4] Quyết định số 156/QĐ-UBND ngày 18/01/2022 của Uỷ ban nhân dân huyện Thủy Ng về việc phê duyệt đồ án điều chỉnh Quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 Dự án Khu đô thị mới Hoàng Huy GR tại xã Hoa Đ và xã Tân Dương, huyện Thủy Nguyên;
[3.5] Quyết định số 2234/QĐ-UBND ngày 11/7/2022 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hải Phòng về việc phê duyệt bổ sung (đợt 1) Kế hoạch sử dụng đất năm 2022 huyện Thuỷ Nguyên;
[3.6] Ngày 17/1/2020, Ủy ban nhân dân huyện Thủy Ng ban hành Quyết định số 282/QĐ-UBND về việc phê duyệt Quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500 Dự án khu đô thị mới Hoàng Huy GR tại xã Hoa Đ và xã Tân Dương, huyện Thuỷ Nguyên;
[3.7] Ngày 29/08/2022, Ủy ban nhân dân huyện Thủy Ng ban hành Thông báo số 520/TB-UBND về việc thu hồi đất thực hiện Dự án khu đô thị mới Hoàng Huy GR tại xã Hoa Đ, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng;
[3.8] Ngày 17/12/2022, Ủy ban nhân dân huyện đã tiến hành họp dân, triển khai Thông báo thu hồi đất và công tác kiểm kê, lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện Dự án; bàn giao Thông báo thu hồi đất, bàn giao Bản tự kê khai đất, tài sản trên đất đến các hộ dân thuộc chỉ giới thu hồi.
[3.9] Ngày 10/2/2023, Tổ công tác Giải phóng mặt bằng huyện Thủy Ng tiến hành kiểm kê đất đai, cây cối hoa màu, vật kiến trúc trên đất thu hồi của hộ ông Phạm Hữu Ch là bố đẻ ông Phạm Ngọc Ngh.
[3.10] Ngày 08/3/2023, Tổ công tác Giải phóng mặt bằng Dự án tiến hành công khai và niêm yết công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Hoa Đ, thông báo trên hệ thống loa truyền thanh xã và bàn giao trực tiếp đến các hộ gia đình, cá nhân thuộc diện thu hồi đất gồm: Phương án dự thảo chi tiết và phương án dự thảo tổng hợp về bồi thường, hỗ trợ đất đai, cây cối, hoa màu, vật kiến trúc; trích lục nguồn gốc đất đai; Phiếu tham gia ý kiến (nếu có); danh sách xác định thời điểm sử dụng đất của các hộ dân có đất thu hồi; các văn bản pháp lý có liên quan.
[3.11] Ngày 28/3/2023, Tổ công tác Giải phóng mặt bằng Dự án lập biên bản kết thúc việc công khai và tổng hợp kiến nghị của các hộ dân liên quan đến việc bồi thường, hỗ trợ, thu hồi đất để kiểm tra, giải quyết.
[3.12] Ngày 04/4/2023, Ủy ban nhân dân huyện Thủy Ng ban hành Quyết định số 2503/QĐ-UBND về việc thu hồi đất (thu hồi diện tích 1991,7m2 đất UBND xã Hoa Đ quản lý hộ ông Phạm Hữu Hoàng sử dụng để thực hiện Dự án Khu đô thị mới Hoàng Huy GR tại xã Hoa Đ, huyện Thuỷ Nguyên) và Quyết định số 2510/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ (Kèm theo phương án số 37/PA-TCT). Các quyết định thu hồi đất và quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất thực hiện Dự án khu đô thị mới Hoàng Huy GR tại xã Hoa Đ, huyện Thủy Ng được được niêm yết công khai tại trụ sở UBND xã Hoa Đ ngày 04/04/2023.
[3.13] Ngày 04/4/2023, Tổ công tác Giải phóng mặt bằng Dự án tiến hành niêm yết công khai Quyết định thu hồi đất và Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ (Ban hành kèm theo Phương án chi tiết của các hộ) tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Hoa Đ, thông báo trên hệ thống loa truyền thanh xã và bàn giao trực tiếp đến các hộ gia đình, cá nhân thuộc diện thu hồi đất.
[3.14] Như vậy, căn cứ Điều 66, Điều 69, Điều 74, Điều 75 Luật Đất đai 2013; căn cứ khoản 2 Điều 30 Quyết định số 24/2022/QĐ-UBND ngày 11/5/2022 của Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng:“Ủy ban nhân dân thành phố ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi đất và phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 66 Luật Đất đai (bao gồm cả dự án thu hồi trên địa bàn hai quận, huyện trở lên), UBND huyện Thủy Ng ban hành các quyết định gồm: Quyết định số 2503/QĐ-UBND ngày 04/4/2023 về việc thu hồi đất để thực hiện Dự án Khu đô thị mới Hoàng Huy GR tại xã Hoa Đ, huyện Thủy Nguyên. Quyết định số 2510/QĐ-UBND ngày 04/4/2023 v/v phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện Dự án Khu đô thị mới Hoàng Huy GR tại xã Hoa Đ, huyện Thủy Nguyên. Phương án bồi thường, hỗ trợ số 37/PA-TCTkhi Nhà nước thu hồi đất giải phóng mặt bằng, thực hiện Dự án Khu đô thị mới Hoàng Huy GR tại xã Hoa Đ, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng; Quyết định số 3423/QĐ-UBND ngày 24/4/2023 và Quyết định số 4548/QĐ-UBND ngày 29/5/2023 v/v phê duyệt điều chỉnh, bổ sung, phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện Dự án Khu đô thị mới Hoàng Huy GR tại xã Hoa Đ, Thủy Ng là đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục.
Về nguồn gốc, diện tích đất đã thu hồi:
[4] Theo Sổ mục kê kiêm thống kê năm 1978 và bản đồ giải thửa 299 lưu trữ tại UBND xã Hoa Đ vị trí thửa đất ông Phạm Hữu Ch sử dụng tại thửa số 66, tờ bản đồ số 02, diện tích 2.340,0m2 loại đất “2 lúa”, chủ sử dụng là Đội 1 và thửa số 67, tờ bản đồ số 02, diện tích 1.188,0m2 loại đất “2 lúa”, chủ sử dụng là Đội 1.
[5] Theo Bản đồ giải thửa (lập theo Chỉ thị 299), vị trí thửa đất ông Phạm Hữu Ch sử dụng tại thửa 260, tờ bản đồ số 02, diện tích 2.340,0m2 loại đất “2 lúa” và thửa 261, tờ bản đồ số 02 diện tích 1.188,0m2 loại đất “2 lúa”.
[6] Ngày 01/6/2011, ủy ban nhân dân xã Hoa Đ ký Hợp đồng thỏa thuận cho thuê đất công ích số 01/HĐTĐ với ông Phạm Hữu Ch ính; địa chỉ: Thôn Đ, xã Hoa Đ, Thủy Nguyên, Hải Phòng; diện tích đất thuê là 1.954,0m2 tại thửa số 260 và thửa 261, tờ bản đồ số 02, thôn Đ, xã Hoa Đ, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng để sử dụng vào mục đích nuôi trồng thủy sản và làm kinh tế VAC; loại đất: đất công ích do UBND xã Hoa Đ quản lý; hiện trạng thửa đất: Mặt bằng đất công ích đã hết hạn hợp đồng giao khoán; thời hạn thuê đất 05 năm; hợp đồng có hiệu lực kể từ ngày ký (01/6/2011).
[7] Theo Mảnh trích đo địa chính tỷ lệ 1/500 do Trung tâm Kỹ thuật – Dữ liệu thông tin tài nguyên và môi trường lập được Sở Tài Nguyên và Môi trường thẩm định ngày 26/8/2022 để bồi thường giải phóng mặt bằng thực hiện Dự án, hộ ông Phạm Hữu Ch đang sử dụng 1.991,1m2 tại thửa số 114 + 115 tờ bản đồ số 06.
[8] Từ các căn cứ trên xác định: Diện tích 1.991,7m2 đất thuộc chỉ giới thu hồi thực hiện dự án do hộ ông Phạm Hữu Ch đang sử dụng tại thửa số 114 + 115, tờ bản đồ số 06 được xác định cụ thể: Diện tích 1.954m2 là đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích do UBND xã Hoa Đ quản lý, ký hợp đồng với ông Phạm Hữu Ch sử dụng vào mục đích nuôi trồng thủy sản với diện tích là 522,8m2 và trồng cây lâu năm với diện tích là 1431,2m2; Diện tích 37,7m2 là đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích do Ủy ban nhân dân xã Hoa Đ quản lý, hộ dân tự sử dụng vào mục đích trồng cây hàng năm. Vì vậy, Hội đồng xét xử, xét thấy: UBND huyện Thủy Ng đã xác định đối tượng thu hồi đất là ông Phạm Hữu Ch và không bồi thường phần diện tích gia đình sử dụng tăng thêm 37m2 là có căn cứ.
[9] Tại Phương án số 37/PA-TCT v/v bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất giải phóng mặt bằng thực hiện dự án khu đô thị mới Hoàng Huy GR tại xã Hoa Đ, huyện Thủy Ng đối với hộ ông Phạm Hữu Ch đã xác định Bồi thường chi phí đầu tư vào đất đối với diện tích nuôi trồng thủy sản được tính bằng diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản và chi phí san lấp mặt bằng (bờ, bãi vật lập) với diện tích cụ thể: (522,8m2 x60.000đ) x20% = 6.273.600 đồng; bãi vật lập diện tích trồng cây lâu năm 1.431,2m2 là (1.955,1m3 x 92.000đ ) x100% = 179.865.060 đồng. Như vậy, phần diện tích 1.431,2m2 đã được tính chi phí bãi vật lập nên Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu bồi thường bổ sung chi phí đầu tư vào đất trên phần đất trồng cây lâu năm với diện tích 1.431,2m2.
[10] Đối với yêu cầu buộc UBND huyện Thủy Ng điều chỉnh tỷ lệ bồi thường, hỗ trợ từ 50% lên 100% giá trị tài sản tạo lập nhà ở, công trình xây dựng trên diện tích 30m2 được phép xây dựng nhà chòi trên đất nuôi trồng thủy sản và 37m2 gia đình tự ý sử dụng. Hội đồng xét xử, xét thấy:Tại Biên bản kiểm kê và Phương án bồi thường số 37 thể hiện: Phần công trình Phạm Ngọc Ngh sử dụng gồm có nhiều căn nhà cụ thể 02 nhà 01 tầng (diện tích 18,5m2, diện tích 20,5m2, diện tích 21,7m2), 02 nhà bếp (diện tích 20m2 và diện tích 19m2). Tại Điều 13 Quyết định số 24/2022/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng quy định “Đối với các nhà chòi được xây dựng trên đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân. 1, Nhà chòi được xây dựng để phục vụ trông coi bảo vệ sản xuất thì bồi thường 100% giá trị xây mới.2. Diện tích nhà chòi được tính bồi thường tối đa là 30m2 (là diện tích xây dựng công trình trên đất, không bao gồm: bờ xây, bờ kè, lối đi, tường bao, tường rào). 3. Giới hạn số lượng nhà chòi để tính bồi thường: Diện tích tối đa đến 05ha: 01 nhà chòi; diện tích đất trên 05 ha đến 15ha: 02 nhà chòi; diện tích đất trên 15ha đến 20ha: 03 nhà chòi; diện tích trên 20ha : 04 nhà chòi. Số lượng diện tích nhà chòi hoặc số lượng nhà chòi vượt quá theo quy định trên hỗ trợ 50% giá trị xây mới. Trường hợp đã có quyết định hoặc Biên bản yêu cầu đình chỉ xây dựng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng vẫn cố tình xây dựng thi không được bồi thường”. Đối chiếu quy định nêu trên với trường hợp nhà ông Phạm Ngọc Ngh, Phạm Hữu Ch ính, xét thấy: diện tích đất dưới 05ha, nhiều căn nhà trên đất và có 01 nhà đã được bồi thường 100%, các căn nhà còn lại trên đất đều đã được bồi thường, hỗ trợ 50% là đã đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người dân có đất bị thu hồi nên không chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện v/v buộc UBND huyện Thủy Ng điều chỉnh tỷ lệ bồi thường, hỗ trợ từ 50% lên đến 100% giá trị tài sản tạo lập nhà ở, công trình xây dựng trên diện tích 30m2 được phép xây dựng nhà chòi trên đất nuôi trồng thủy sản và 37m2 gia đình tự ý sử dụng.
[11] Đối với yêu cầu buộc UBND huyện Thủy Ng giải quyết cấp đất có thu tiền sử dụng đất cho gia đình ông Ngh. Hội đồng xét xử, xét thấy: Tại khoản 4 Điều 6 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định Bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất ở:“...4.Đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất gắn liền với nhà ở thuộc trường hợp phải di chuyển chỗ ở nhưng không đủ điều kiện được bồi thường về đất ở, nếu không có chỗ ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất ở thu hồi thì được nhà nước bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở hoặc giao đất ở có thu tiền sử dụng đất. Giá bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở; giá đất ở tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định”. Tuy nhiên, Ủy ban nhân dân xã Hoa Đ đã ký Hợp đồng thuê đất công ích số 01/HĐTĐ với ông Phạm Hữu Ch với diện tích đất thuê 1.954,0m2 tại thửa số 260 và thửa 261, tờ bản đồ số 02, thôn Đ, xã Hoa Đ, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng để sử dụng vào mục đích nuôi trồng thủy sản và làm kinh tế VAC; loại đất: đất công ích do UBND xã Hoa Đ quản lý; diện tích đất mà ông C đã ký thuê của UBND xã Hoa Đ hiện ông Phạm Ngọc Ngh đang ăn ở, sinh hoạt không phải là đất ở và Hội đồng bồi thường, hỗ trợ tái định cư của Dự án đã xét giao 01 lô đất ở vào khu tái định cư của Dự án cho ông Phạm Hữu Ch tại vị trí thửa đất ở nhận thừa kế của ông Phạm Hữu Ước. Ông Phạm Ngọc Ngh không được xác định là người có đất bị thu hồi. Vì vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu buộc UBND huyện Thủy Ng giải quyết cấp đất có thu tiền sử dụng đất cho gia đình ông Phạm Ngọc Ngh.
[12] Đối với yêu cầu buộc UBND huyện Thủy Ng bồi thường thiệt hại chi phí tạm lánh (thuê nhà) trong thời gian 18 tháng. Hội đồng xét xử, xét thấy: Ông Phạm Hữu Ch ký hợp đồng thuê đất công ích của UBND xã Hoa Đ với mục đích sản xuất nông nghiệp và mặc dù ông Phạm Ngọc Ngh (con trai ông Ch) có ăn ở sinh hoạt trên đất nông nghiệp; tuy nhiên căn cứ vào Điều 79, Điều 83, Điều 86 Luật Đất đai; Điều 27 Quyết định số 24/2022/QĐ-UBND ngày 11/5/2022 của UBND thành phố Hải Phòng v/v ban hành quy định chi tiết một số nội dung về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hải Phòng quy định thì ông Phạm Ngọc Ngh, ông Phạm Hữu Ch đều không thuộc đối tượng có đất ở bị thu hồi,không thuộc đối tượng được bố trí tái định cư nên không được hỗ trợ chi phí tạm lánh thuê nhà. Vì vậy, không chấp nhận yêu cầu này của người khởi kiện.
[13] Từ các phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử, xét thấy: Ủy ban nhân dân huyện Thủy Ng đã ban hành các quyết định: Quyết định số 2503/QĐ-UBND ngày 04/4/2023 về việc thu hồi đất để thực hiện Dự án Khu đô thị mới Hoàng Huy GR tại xã Hoa Đ, huyện Thủy Nguyên, Quyết định số 2510/QĐ-UBND ngày 04/4/2023 v/v phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện Dự án Khu đô thị mới Hoàng Huy GR tại xã Hoa Đ, huyện Thủy Nguyên, Phương án bồi thường, hỗ trợ số 37/PA-TCT khi Nhà nước thu hồi đất giải phóng mặt bằng, thực hiện Dự án Khu đô thị mới Hoàng Huy GR tại xã Hoa Đ, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng; Quyết định số 3423/QĐ-UBND ngày 24/4/2023 và Quyết định số 4548/QĐ-UBND ngày 29/5/2023 v/v phê duyệt điều chỉnh, bổ sung, phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện Dự án Khu đô thị mới Hoàng Huy GR tại xã Hoa Đ, Thủy Ng là phù hợp với quy định pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng bị thu hồi đất. Vì vậy, không chấp nhận toàn bộ các yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện .
[14] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận nên người khởi kiện phải chịu án phí hành chính sơ thẩm.
[15] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1 Điều 30; Điều 32; Điều 115; điểm a khoản 2 Điều 193; Điều 194; Luật Tố tụng hành chính năm 2015;
- Căn cứ vào khoản 2 Điều 5; Điều 66; Điều 69; Điều 74; Điều 75; điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 79; điểm c khoản 2 Điều 83; Điều 86; Điều 100 Luật Đất đai 2013;
- Căn cứ khoản 4 Điều 6 Nghị định 47/2015/NĐ-CP quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên xử:
1. Bác yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện về việc:
- Sửa đổi quyết định thu hồi và phương án bồi thường đối với phần 37m2 là gia đình tự ý sử dụng vào mục đích để ở từ trước ngày 01/7/2024.
- Bồi thường bổ sung chi phí đầu tư vào đất trên phần đất trồng cây lâu năm với diện tích 1.431,2m2.
- Buộc UBND huyện Thuỷ Ng điều chỉnh tỷ lệ bồi thường từ 50% lên 100% giá trị tài sản tạo lập là nhà ở, công trình xây dựng trên diện tích 30m2 được phép xây dựng nhà chòi trên đất nuôi trồng thuỷ sản và 37m2 gia đình tự ý sử dụng.
- Buộc UBND huyện Thuỷ Ng giải quyết cấp đất có thu tiền sử dụng đất cho gia đình người khởi kiện gồm 4 nhân khẩu.
- Buộc UBND huyện Thuỷ Ng bồi thường thiệt hại phần chi phí tạm lánh (thuê nhà) trong thời gian 18 tháng theo quy định của pháp luật.
2. Về án phí: Ông Phạm Ngọc Ngh phải nộp án phí hành chính sơ thẩm. Ông Phạm Ngọc Ngh đã nộp đủ số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí hành chính sơ thẩm theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000093 ngày 13/5/2024 tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng.
3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.
Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực thu hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng số 83/2024/HC-ST
| Số hiệu: | 83/2024/HC-ST |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Phòng |
| Lĩnh vực: | Hành chính |
| Ngày ban hành: | 16/08/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về