TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 529/2021/HC-PT NGÀY 28/12 /2021 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH ÁP DỤNG BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC HẬU QUẢ TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI
Ngày 28 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số: 163/2021/TLPT-HC ngày 02 tháng 3 năm 2021 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính về áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực đất đai”.Do Bản án hành chính sơ thẩm số 1981/2020/HC-ST ngày 24 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 2638/2021/QĐPT-HC ngày 29 tháng 11 năm 2021, giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Nguyễn Tâm B; sinh năm 1951 (vắng mặt) Địa chỉ cư trú: Ấp 3, xã T, huyện G, tỉnh Tiền Giang;
Tạm trú: Số C906, tổ 11, Khu phố 5, phường L, quận T (nay là thành phố T), Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đinh Ngọc K, sinh năm 1953 (có mặt) Địa chỉ: 948C, Quốc lộ 1A, tổ 11, khu phố 5, phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
(Văn bản ủy quyền ngày 22/11/2021)
- Người bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận T (nay là thành phố T), Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của người bị kiện: Ông Hoàng T, Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận T (nay là thành phố T), Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện:
1- Ông Phan Bá T1; Phó Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường quận T (nay là thành phố T), Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt);
2- Ông Dương Thành N; Công chức địa chính xây dựng đô thị môi trường Ủy ban nhân dân phường L, quận T (nay là thành phố T), Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt);
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Trường Đại học N1 Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt);
Địa chỉ: Khu phố 6, Phường L, quận T (nay là thành phố T), Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người kháng cáo: Người khởi kiện là ông Nguyễn Tâm B.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 29/7/2017 và biên bản đối thoại, người khởi kiện ông Nguyễn Tâm B yêu cầu Tòa án tuyên hủy Quyết định số 4372/QĐ-KPHQ ngày 19/7/2017 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) quận T (nay là thành phố T), Thành phố Hồ Chí Minh về áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực đất đai đối với nhà và đất thuộc quyền sử dụng của ông B tại nhà không số Quốc lộ 1A, tổ 11, khu phố 5, phường L, quận T (nay là thành phố T), Thành phố Hồ Chí Minh có diện tích 444,8m2, với lý do cụ thể như sau:
Năm 1993, ông Nguyễn Tâm B khai phá khu đất tọa lạc tại tổ 11, khu phố 5, phường L, quận T (nay là thành phố T) để xây dựng nhà và sử dụng với diện tích đất là 457,4 m2, có các công trình xây dựng gồm 01 nhà xây 22,2 m2 mái tôn, tường xây, cột xây, nền xi măng; 01 nhà tạm 20,4 m2 mái tôn, cột cây, nền đất, vách tôn; 02 quán 101,65 m2 mái tôn, cột cây, nền đất, vách tôn. Sử dụng từ trước ngày 15/10/1993 đến nay không có ai tranh chấp.
Ngày 19/7/2017, Chủ tịch UBND quận T (nay là thành phố T) căn cứ vào Nghị định 102/2014/NĐ-CP ngày 10/11/2014 của Chính Phủ để ban hành Quyết định 4372/QĐ-KPHQ với nội dung xác định ông B lấn chiếm 444,8m2 đất do Trường Đại học N1, Thành phố Hồ Chí Minh quản lý từ năm 2003 là không có căn cứ vì như trình bày trên ông B đã sử dụng nhà và đất từ trước ngày 15/10/1993, có nguồn gốc tự khai phá nên phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 101 Luật đất đai năm 2013 và Điều 36 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính Phủ.
Việc Chủ tịch UBND quận T (nay là thành phố T) quy kết ông B lấn chiếm đất của trường Đại học N1 quản lý và buộc khắc phục hậu quả trả lại đất đã lấn chiếm là trái quy định của khoản 1 Điều 36, khoản 1 Điều 37 Nghị định 102/2014/NĐ-CP ngày 10/11/2014 của Chính Phủ và trái quy định tại Điều 36 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính Phủ.
Tại văn bản số 4279/UBND-TNMT ngày 02/10/2017 và số 410/UBND- TNMT ngày 22/01/2018, người bị kiện có ý kiến như sau:
1. Vị trí - Diện tích đất.
Khu đất có diện tích 444,8m2 thuộc một phần thửa số 01, tờ bản đồ số 16 (theo tài liệu năm 2004), phường L, quận T (nay là thành phố T), TP. Hồ Chí Minh.
2. Nguồn gốc, pháp lý sử dụng đất.
2.1. Nguồn gốc và quá trình sử dụng đất:
Đất lộ giới đường Quốc lộ 1A (nay là Quốc lộ 1) do Nhà nước trực tiếp quản lý. Năm 2003, UBND Thành phố Hồ Chí Minh giao cho Trường Đại học N1 tạm thời quản lý, sử dụng theo hiện trạng phần đất nằm trong quy hoạch lộ giới Quốc lộ 1A cho đến khi Nhà nước triển khai thực hiện quy hoạch (Quyết định số 5155/ỌĐ-UB ngày 26 tháng 11 năm 2003).
2.2. Về thông tin của khu đất theo sổ bộ:
Căn cứ Văn bản số 2697/VPĐK-KTĐC ngày 24 tháng 02 năm 2016 của Văn phòng đăng ký đất đai Thành phố Hồ Chí Minh về cung cấp thông tin, tài liệu đăng ký tại khu đất tổ 10, 11 khu phố 5, phường L quận T (nay là thành phố T), quá trình đăng ký như sau:
- Theo Sổ địa bộ trước năm 1975: thuộc Đông Hòa xã (tỉnh Bình Dương).
- Theo Tài liệu 299/TTg: khu đất thuộc một phần thửa đất số 20, tờ bản đồ số 02, diện tích 7.232m2, loại đất ĐM, do UBND xã Tăng Nhơn Phú, huyện T đăng ký và một phần đường, rạch.
- Theo Tài liệu 02/CT-UB: khu đất thuộc một phần thửa đất số 3, tờ bản đồ số 15, xã Tân Phú, huyện T.
- Theo tài liệu bản đồ năm 2004: khu đất thuộc thửa 01, tờ bản đồ 16, diện tích 3292,6m2, loại đất XD, do UBND phường L đăng ký.
3. Diễn biến xử lý vi phạm hành chính thu hồi đất:
Ngày 17/5/2017, UBND phường L lập biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai số 04/BB-VPHC đối với ông Nguyễn Tâm B, địa chỉ thường trú: Ấp 3, xã Tân Tây, Gò Công Đông, Tiền Giang.
Ngày 19/5/2017, UBND phường L có Văn bản số 309/UBND về việc đề xuất xử lý vi phạm hành chính về lĩnh vực đất đai đối với ông Nguyễn Tâm B.
Ngày 19/7/2017, Chủ tịch UBND quận T (nay là thành phố T) ban hành Quyết định số 4372/QĐ-KPHQ áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả đối với ông Nguyễn Tâm B, địa chỉ thường trú: Ấp 3, xã Tân Tây, Gò Công Đông, Tiền Giang, đã có hành vi chiếm đất phi nông nghiệp không phải là đất ở diện tích 444,8m2 (đất lộ giới đường Quốc lộ 1A nay là Quốc lộ 1), thuộc khu đất do Đại học N1 tạm thời quản lý theo Quyết định số 5155/QĐ-UB ngày 26 tháng 11 năm 2003 của UBND Thành phố Hồ Chí Minh.
Lý do không ra quyết định xử phạt: Hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính (thời điểm vi phạm: năm 2006).
Biện pháp để khắc phục hậu quả: Buộc ông Nguyễn Tâm B khôi phục lại tình trạng của đất trước khi vi phạm và trả lại đất đã chiếm.
Ngày 24/7/2017, UBND phường L phối hợp cùng Phòng Tài nguyên và Môi trường đã công bố và giao Quyết định số 4372/QĐ-KPHQ ngày 19/7/2017 của Chủ tịch UBND quận T (nay là thành phố T) cho ông Nguyễn Tâm B.
Chủ tịch UBND quận T (nay là thành phố T) nhận thấy đã thực hiện đúng quy định pháp luật, quy trình, thủ tục đối với việc ban hành Quyết định nêu trên, do đó đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử vụ kiện hành chính của ông Nguyễn Tâm B theo quy định pháp luật.
Tại bản tự khai số 2596/ĐHNL-QTVT ngày 07/9/2020 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Trường Đại học N1 Thành phố Hồ Chí Minh (sau đây viết tắt là Đại học N1) trình bày:
Trường Đại học N1 được giao quyền sử dụng khu đất thuộc một phần thửa đất số 01, tờ bản đồ số 16 theo tài liệu năm 2004, có vị trí tại Quốc lộ 1A, Khu phố 5, phường L, quận T (nay là thành phố T), Thành phố Hồ Chí Minh theo Quyết định cấp giấy phép sử dụng đất số 32/QĐ-UB ngày 23/01/1990 của UBND tỉnh Sông Bé và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W740876 ngày 28/11/2003 của UBND Thành phố Hồ Chí Minh. Đại học N1 được giao tạm thời quản lý và sử dụng theo hiện trạng đối với phần đất nằm trong quy hoạch lộ giới Quốc lộ 1A cho đến khi nhà nước triển khai thực hiện quy hoạch theo Quyết định số 5155 ngày 26/11/2003 của UBND Thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy theo các văn bản được giao thì khu đất trên thuộc quyền quản lý của Đại học N1. Nay yêu cầu tòa án xét xử vụ án hành chính của ông B theo quy định pháp luật.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 1981/2020/HC-ST ngày 24 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Tâm B về việc yêu cầu hủy Quyết định số 4372/QĐ-KPHQ ngày 19/7/2017 về việc “Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả” của Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận T (nay là thành phố T), Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 01/12/2020, người khởi kiện kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người khởi kiện là ông Nguyễn Tâm B (có ông Đinh Ngọc K đại diện theo ủy quyền) vẫn kháng cáo cho rằng bản án của Tòa án cấp sơ thẩm, bác yêu cầu khởi kiện của ông B, về việc hủy Quyết định số 4372/QĐ-KPHQ ngày 19/7/2017 của Chủ tịch UBND quận T (nay là thành phố T) là đánh giá không phù hợp với các tình tiết khách quan trong vụ án. Ông B đã sử dụng đất từ trước năm 1993, trước thời điểm Trường Đại học N1 được giao đất (năm 2003). Người bị kiện cho rằng ông B lấn chiếm đất nhưng không có văn bản nào chứng minh. Hơn nữa, theo biên bản bồi thường - hỗ trợ đất và tài sản trên đất số 12/BB-BT ngày 28/10/2005 đã khẳng định ông B là chủ sử dụng hợp pháp đối với 457,4m2 đất, bị thu hồi 12,6m2, còn lại 444,8m2 đất nông nghiệp có cải tạo tự chiếm dụng trước 15/10/1993, sau đó Ủy ban cũng không thu hồi phần này mà vẫn để ông B tiếp tục sử dụng. Do đó, không có căn cứ xác định ông B lấn chiếm đất của Trường Đại học N1. Ngoài ra, bản án của Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Nghị định 102/2014/NĐ-CP và Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 để xử lý hành vi vi phạm của ông B xảy ra năm 1993 là không đúng văn bản quy định pháp luật. Từ những lý do trên, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của ông B, hủy bản án sơ thẩm.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện, ông Phan Bá T1 và ông Dương Thành N thống nhất phát biểu ý kiến không đồng ý yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm bác kháng cáo và giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh nêu quan điểm giải quyết vụ án:
Về tố tụng, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Luật tố tụng hành chính. Các đương sự thực hiện quyền, nghĩa vụ theo đúng quy định pháp luật.
Về nội dung, bản án của Tòa án cấp sơ thẩm xử bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Tâm B là có căn cứ và đúng quy định pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ nào mới chứng minh nên không có căn cứ chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của ông Nguyễn Tâm B và giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Trường Đại học N1 Thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt không có lý do; Chủ tịch UBND thành phố T có văn bản xin xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 225 Luật tố tụng hành chính, Tòa án tiến hành phiên tòa phúc thẩm xét xử vắng mặt những đương sự này.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nguyễn Tâm B (có ông Đinh Ngọc K đại diện theo ủy quyền) kháng cáo cho rằng phần đất có diện tích 444,8m2 (đất lộ giới đường Quốc lộ 1A nay là Quốc lộ 1) có nguồn gốc do ông B khai phá và sử dụng ổn định từ năm 1993 nên không có việc ông B lấn chiếm đất do trường Đại học N1 quản lý. Do đó, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy Quyết định số 4372/QĐ-KPHQ về việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc trả lại đất lấn chiếm đối với ông Nguyễn Tâm B.
[3] Hồ sơ vụ án thể hiện, ngày 17/5/2017, UBND phường L lập biên bản vi phạm hành chính số 04/BB-VPHC đối với ông Nguyễn Tâm B về hành vi lấn chiếm 444,8m2 đất phi nông nghiệp không phải là đất ở thuộc thửa 01 tờ bản đồ số 16 (tài liệu năm 2004) tại Quốc lộ 1, khu phố 5, phường L, quận T (nay là thành phố T). Trên cơ sở biên bản vi phạm hành chính và đề xuất của UBND phường L, ngày 19/7/2017 Chủ tịch UBND quận T (nay là thành phố T) ban hành Quyết định số 4372/QĐ-KPHQ là đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền theo quy định tại Điều 38; điểm c khoản 1, 2 Điều 65 của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012; khoản 2 Điều 31, khoản 2 Điều 34 của Nghị định 102/2014/NĐ-CP ngày 10/11/2014; Quyết định số 1918/QĐ-GQ ngày 15/4/2016 của Chủ tịch UBND quận T (nay là thành phố T) về việc giao quyền xử phạt vi phạm hành chính.
[4] Theo Sổ mục kê ruộng đất tài liệu Chỉ thị 299/TTg do UBND xã Tăng Nhơn Phú lập ngày 30/7/1984, phần đất nêu tại mục [3] thuộc thửa 20, tờ bản đồ số 2 thuộc quyền sử dụng của UBND xã Tăng Nhơn Phú.
[5] Tại văn bản số 2697/VPDK-KTĐC ngày 24/02/2016 của Văn phòng đăng ký đất đai Thành phố Hồ Chí Minh về cung cấp thông tin, tài liệu đăng ký tại khu đất tổ 10, 11 khu phố 5, phường L, quận T (nay là thành phố T) thể hiện: “Theo sổ địa bộ trước năm 1975: thuộc Đông Hòa xã (tỉnh Bình Dương); Theo tài liệu 299/TTg: khu đất thuộc một phần thửa đất số 20, tờ bản đồ số 02, diện tích 7.232m2, loại đất ĐM do UBND xã Tăng Nhơn Phú, huyện T đăng ký và một phần đường, rạch; Theo Tài liệu 02/CT-UB: khu đất thuộc một phần thửa đất số 3, tờ bản đồ số 15, xã Tân Phú, huyện T; Theo tài liệu bản đồ năm 2004: khu đất thuộc thửa 01, tờ bản đồ số 16, diện tích 3292,6m2, loại đất XD do UBND phường L đăng ký quyền sử dụng đất”.
[6] Tại Quy định tạm thời số 639/XDCB “Về lộ giới các trục đường bộ trên lãnh thổ Thành phố Hồ Chí Minh” ngày 08/4/1982 của Ban Xây dựng cơ bản thuộc UBND Thành phố Hồ Chí Minh và Quyết định số 6982/QĐ-UBND- QLĐT ngày 30/9/1995 của UBND Thành phố Hồ Chí Minh kèm Phụ lục lộ giới (quy định chỉ giới đường đỏ) kèm theo Quyết định thể hiện lộ giới Quốc lộ 1 (trước đây là Quốc lộ 1A đường Xuyên Á) đã được quy định từ năm 1982. Đối chiếu với mốc lộ giới thì phần đất tranh chấp nằm trong lộ giới Quốc lộ 1A.
[7] Từ những phân tích trên, có cơ sở xác định, phần đất có diện tích 444,8m2 nêu trên do UBND phường L đăng ký quyền sử dụng, đã được xác định lộ giới Quốc lộ 1A từ năm 1982.
[8] Xét thấy, ông Nguyễn Tâm B (có ông Đinh Ngọc K đại diện theo ủy quyền) trình bày đã khai hoang và sử dụng phần đất từ trước ngày 15/10/1993 nhưng không có tài liệu chứng cứ chứng minh. Trong khi đó, tại biên bản bồi thường, hỗ trợ đất và tài sản trên đất số 12/BB-BT ngày 28/10/2005 của UBND quận T (nay là thành phố T) khi thực hiện dự án Đầu tư trạm biến áp 110/22-15 KV đã xác định đất ông B sử dụng là “đất ở tự chiếm”. Như vậy, tại thời điểm ông B sử dụng đất, phần đất trên đã thuộc quyền quản lý của Nhà nước. Quá trình sử dụng đất không đủ căn cứ để chứng minh ông B có quyền sử dụng hợp pháp đối với phần đất trên. Do đó, Quyết định 4372/QĐ-KPHQ ngày 19/7/2017 về việc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả, buộc ông B phải trả lại phần diện tích đất đã lấn chiếm là phù hợp quy định pháp luật.
[9] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy, bản án của Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của ông B là có căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện có kháng cáo nhưng không cung cấp được tài liệu chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo nên Hội đồng xét xử phúc thẩm bác kháng cáo và giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là có căn cứ chấp nhận.
[10] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[11] Án phí hành chính phúc thẩm: Ông Nguyễn Tâm B được miễn theo quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính;
Bác yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện là ông Nguyễn Tâm B. Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 1981/2020/HC-ST ngày 24/11/2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Áp dụng vào Điều 6 của Luật Đất đai năm 1993; Điều 12 của Luật Đất đai năm 2013; Điều 6, Điều 28, Điều 54, và Điều 65 của Luật xử lý vi phạm hành chính năm số 15/2012/QH13; Luật Tổ chức chính quyền địa phương; Điều 3, Điều 10, Điều 31, và Điều 34 của Nghị định số 102/2014/NĐ-CP ngày 10/11/2014 về “Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai” của Chính Phủ; điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 1 Điều 32 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Tâm B về việc yêu cầu hủy Quyết định số 4372/QĐ-KPHQ ngày 19/7/2017 về việc “Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả” của Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận T (nay là thành phố T), Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
3. Án phí hành chính phúc thẩm: Ông Nguyễn Tâm B được miễn.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực đất đai số 529/2021/HC-PT
Số hiệu: | 529/2021/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 28/12/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về