TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 22/2022/HC-ST NGÀY 05/04/2022 VỀ KHIẾU KIỆN HÀNH VI HÀNH CHÍNH
Ngày 05 tháng 04 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử sơ thẩm vụ án hành chính thụ lý số 131/2021/TLST-HC ngày 24/11/2021 về việc “Khiếu kiện hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2022/QĐXXST-HC ngày 04/03/2022, giữa các đương sự:
Người khởi kiện: Bà Trương Thị Kh, sinh năm 1944. Địa chỉ; Số 177, ấp PT, xã TP, huyện B, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Kh: Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1979. Địa chỉ: ấp PT, xã TP, huyện B, tỉnh Long An.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bà Kh: Luật sư Ngô Hữu N thuộc Đoàn Luật sư thành phố H. Địa chỉ: Văn phòng Luật sư T, Số 17C Nguyễn Văn Trỗi, Phường 12, quận P, Thành phố H
Người bị kiện:
- Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Thành U, Chức vụ: Phó Chủ tịch UBND huyện B, tỉnh Long An.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp: Ông Trần Văn H, Chức vụ: Chuyên viên Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện B, tỉnh Long An.
- Ủy ban nhân dân xã TP, huyện B, tỉnh Long An.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Văn L, Chức vụ: Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã TP, huyện B, tỉnh Long An.
(Ông S, ông H có mặt; Ông U, ông L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 06/5/2021 và lời trình bày của người đại diện khởi kiện trong quá trình giải quyết và tại phiên tòa có nội dung:
Vào khoảng năm 1982 phần đất mà hiện nay có số thửa 276 (số cũ 1860), tờ bản đồ số 15 (tờ bản đồ cũ 02) có diện tích 1.557m2 tọa lạc tại ấp Phước Tú, xã TP, huyện B, tỉnh Long An do Nhà nước cấp cho gia đình bà Kh để canh tác. Vào năm 1987 sau khi Hợp tác xã Phước Tú tan rã thì gia đình bà Kh tiếp tục canh tác từ đó cho đến nay, đất không có tranh chấp. Vào ngày 13/4/2021 qua đường bưu điện có báo phát bà Kh có nộp hồ sơ đến Ủy ban nhân dân huyện B để xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho lô đất nêu trên nhưng Ủy ban nhân dân huyện B không giải quyết. Trước đó bà Kh cũng có nộp đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho lô đất nêu trên tại Ủy ban nhân dân xã TP nhưng Ủy ban nhân dân xã TP cũng từ chối cấp với lý do “mượn đất để sản xuất nông nghiệp”.
Nay bà Kh khởi kiện buộc Ủy ban nhân dân xã TP và Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An:
1/ Nhận và lập hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại phần đất có số thửa 276 (cũ 1860), tờ bản đồ số 15 (cũ 02) có diện tích 1.557m2 tọa lạc tại ấp PT, xã TP, huyện B, tỉnh Long An.
2/ Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Kh tại phần đất có số thửa 276 (cũ 1860), tờ bản đồ số 15 (cũ 02) có diện tích 1.557m2 tọa lạc tại ấp PT, xã TP, huyện B, tỉnh Long An.
Tại Văn bản số 3894/UBND-VP ngày 22 tháng 3 năm 2022 của người bị kiện Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An có nội dung như sau:
Ngày 16/6/2021 Ủy ban nhân dân xã TP có báo cáo số 303/BC-UBND về việc quản lý đất công trên địa bàn xã (đất có nguồn gốc từ Hợp tác xã nông nghiệp cho người dân mượn) và đề nghị Ủy ban nhân dân huyện B xem xét cho ý kiến được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho số hộ để ổn định tình hình quản lý đất đai tại địa phương. Ngày 22/9/2021 Ủy ban nhân dân huyện B đã có công văn số 6721/UBND-VP giao cho Ủy ban nhân dân xã TP chủ trì, phối hợp cùng Phòng tài nguyên môi trường khẩn trương tiến hành lập hồ sơ đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho những trường hợp đủ điều kiện theo qui định.
Tại Văn bản số 87/CV-UBND ngày 18 tháng 02 năm 2022 của người bị kiện Ủy ban nhân dân xã TP, huyện B, tỉnh Long An có nội dung như sau:
Ủy ban nhân dân xã TP xin vắng mặt tại các buổi đối thoại và tại các phiên tòa. Trong vụ án này Ủy ban nhân dân xã TP không có ý kiến hay yêu cầu gì đề nghị Tòa án nhân dân các cấp xét xử theo qui định của pháp luật.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Trong quá trình từ khi thụ lý vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán đã thực hiện đúng theo trình tự thủ tục tố tụng quy định, về đối tượng khởi kiện, thời hiệu khởi kiện và thẩm quyền, Tòa án xác định đúng đối tượng, khi bà Kh khởi kiện là còn trong thời hiệu nên việc Tòa án thụ lý giải quyết vụ án theo trình tự sơ thẩm là đúng thẩm quyền.
Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ, căn cứ vào phần tranh tụng tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Trương Thị Kh về việc khởi kiện hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân xã TP và Ủy ban nhân dân huyện B.
Nhận và lập hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 276 (cũ 1860), tờ bản đồ số 15 (cũ 02) có diện tích 1.557m2 tọa lạc tại ấp PT, xã TP, huyện B, tỉnh Long An.
Buộc Ủy ban nhân dân xã TP và Ủy ban nhân dân huyện B thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Bà Trương Thị Kh tại phần đất có số thửa 276 (cũ 1860), tờ bản đồ số 15 (cũ 02) có diện tích 1.557m2 tọa lạc tại ấp Phước Tú, xã TP, huyện B, tỉnh Long An đúng diện tích thực tế bà Kh sử dụng theo quy định Luật đất đai.
Hủy văn bản số 189/CV-UBND ngày 06/4/2021 của Ủy ban nhân dân xã TP, huyện B, tỉnh Long An.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu chứng cứ, ý kiến của những người tham gia tố tụng và ý kiến Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Thủ tục tố tụng:
[1.1] Về đối tượng khởi kiện và thẩm quyền giải quyết vụ án:
Yêu cầu xem xét hành vi không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai của Ủy ban nhân dân xã TP và Ủy ban nhân dân huyện B thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính theo quy định tại khoản 1 Điều 30 và khoản 4 Điều 32 Luật tố tụng hành chính nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.
Văn bản số 189/CV-UBND ngày 06/4/2021 của Ủy ban nhân dân xã TP là quyết định hành chính có liên quan nên được xem xét giải quyết trong vụ án này theo quy định tại Điều 193 Luật tố tụng hành chính.
[1.2] Về thời hiệu khởi kiện: Bà Trương Thị Kh nộp hồ sơ đến Ủy ban nhân dân huyện B để xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 276 nhưng Ủy ban nhân dân huyện B không giải quyết. Trước đó bà Kh cũng nộp đơn đăng ký kê khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đến Ủy ban nhân dân xã TP. Ngày 06/4/2021, Ủy ban nhân dân xã TP ban hành văn bản số 189/CV-UBND có nội dung xác định bà Kh không đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với thửa đất số 276. Đến ngày 07/5/2021 bà Kh nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân tỉnh Long An là còn thời hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính.
[1.3] Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, đại diện người bị kiện là Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An và Ủy ban nhân dân xã TP, huyện B, tỉnh Long An có đơn xin vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Căn cứ Điều 157; khoản 1 Điều 158 Luật Tố tụng hành chính Tòa án nhân dân tỉnh Long An tiến hành xét xử vắng mặt đối với người bị kiện là phù hợp.
[1.4] Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành thông báo cho các đương sự về phiên họp kiểm tra việc giao nộp chứng cứ và đối thoại nhưng đại diện người khởi kiện có đơn yêu cầu không tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp chứng cứ và đối thoại; Người bị kiện có đơn xin vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Căn cứ vào Điều 135, 136 Luật Tố tụng hành chính Tòa án thu thập đầy đủ chứng cứ, không tiến hành đối thoại và đưa vụ án ra xét xử là có cơ sở.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về thẩm quyền: Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An là cơ quan quản lý đất đai địa phương có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu theo quy định tại khoản 2 Điều 105 Luật đất đai. Ủy ban nhân dân xã TP là cơ quan tiếp nhận hồ sơ và thực hiện thủ tục xác nhận tình trạng đất theo quy định tại Điều 101 Luật đất đai. Do đó, hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Bà Trương Thị Kh gởi đến Ủy ban nhân dân xã TP và Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An là đúng cơ quan có thẩm quyền.
[2.2] Về hành vi hành chính bị kiện, xét thấy:
Việc Ủy ban nhân dân xã TP xác định phần đất thuộc thửa số 276 mà Bà Trương Thị Kh xin đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không đủ điều kiện được cấp giấy là không chính xác. Bởi lẽ, nguồn gốc thửa đất số 276 gia đình bà Kh được Hợp tác xã Phước Tú giao cho để sản xuất. Năm 1988, khi Hợp tác xã Phước Tú giải thể thì gia đình bà Kh tiếp tục canh tác ổn định thửa đất số 276 từ năm 1988 đến nay, không có phát sinh tranh chấp và kê khai đăng ký để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bà Kh kê khai đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là thực hiện quyền của người sử dụng đất được quy định tại Điều 166 Luật Đất đai. Do đó, bà Kh đủ điều kiện được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 166 và Điều 101 Luật Đất đai năm 2013. Nhưng Ủy ban nhân dân xã TP và Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An không thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Kh là trái quy định pháp luật và ảnh hưởng quyền lợi ích hợp pháp của bà Kh.
[2.2.1] Vì vậy, Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Trương Thị Kh về việc khởi kiện hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai của Ủy ban nhân dân xã TP và Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An như quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An đã đề nghị.
[2.2.2] Hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân xã TP và Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An về việc không thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Bà Trương Thị Kh là chưa đúng qui định pháp luật.
[2.2.3] Đối với văn bản có liên quan số 189/CV-UBND ngày 06/4/2021 của Ủy ban nhân dân xã TP, huyện B, tỉnh Long An có nội dung xác định trường hợp bà Kh không đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không đúng qui định của pháp luật nên cũng cần phải hủy.
[2.2.4] Buộc Ủy ban nhân dân xã TP và Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An phải thực hiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Bà Trương Thị Kh đối với thửa đất số 276, tờ bản đồ số 15, tọa lạc ấp Phước Tú, xã TP, huyện B, tỉnh Long An theo quy định Luật đất đai.
[3] Về chi phí tố tụng và án phí:
[3.1] Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 1.400.000 đồng, Bà Trương Thị Kh đã nộp tạm ứng và tự nguyện chịu toàn bộ chi phí này là phù hợp theo khoản 1 Điều 357; Điều 358 Luật Tố tụng hành chính nên ghi nhận.
[3.2] Về án phí: Bà Trương Thị Kh không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm. Ủy ban nhân dân xã TP và Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An phải chịu án phí hành chính sơ thẩm theo quy định của Điều 348 Luật Tố tụng hành chính và Điều 32 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 30, Điều 32 và Điều 193 Luật tố tụng hành chính; Căn cứ Điều 166, Điều 101 và Điều 105 Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ Điều 32 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Tuyên xử:
[1] Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Trương Thị Kh về việc khởi kiện hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân xã TP, huyện B, tỉnh Long An và Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An.
Buộc Ủy ban nhân dân xã TP, huyện B, tỉnh Long An và Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An nhận và lập hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 276 (cũ 1860), tờ bản đồ số 15 (cũ 02) có diện tích 1.557m2 tọa lạc tại ấp Phước Tú, xã TP, huyện B, tỉnh Long An cho Bà Trương Thị Kh.
Buộc Ủy ban nhân dân xã TP, huyện B, tỉnh Long An và Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An phải thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Bà Trương Thị Kh thửa đất số 276 (cũ 1860), tờ bản đồ số 15 (cũ 02) diện tích 1.557m2 tọa lạc tại ấp Phước Tú, xã TP, huyện B, tỉnh Long An theo quy định của Luật Đất đai.
Hủy văn bản số 189/CV-UBND ngày 06/4/2021 của Ủy ban nhân dân xã TP, huyện B, tỉnh Long An.
[2] Về chi phí tố tụng: Ghi nhận sự tự nguyện của Bà Trương Thị Kh chịu 1.400.000 đồng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, bà Kh đã nộp xong.
[3] Về án phí:
Bà Trương Thị Kh là người cao tuổi được miễn nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm, bà Kh không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm.
Ủy ban nhân dân xã TP, huyện B, tỉnh Long An phải nộp 300.000đ án phí hành chính sơ thẩm.
Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Long An phải nộp 300.000đ án phí hành chính sơ thẩm.
[4] Án xử sơ thẩm công khai, các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về khiếu kiện hành vi hành chính số 22/2022/HC-ST
Số hiệu: | 22/2022/HC-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Long An |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 05/04/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về