TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
BẢN ÁN 126/2022/HC-ST NGÀY 29/11/2022 VỀ KHIẾU KIỆN HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BỒI THƯỜNG ĐẤT ĐAI
Ngày 29 tháng 11 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 78/2022/TLST- HC ngày 24-5-2022 về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực bồi thường đất.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 120/2022/QĐ-PT ngày 17- 10-2022, Thông báo mở lại phiên tòa số 343/2022/TB-TA ngày 19-10-2022; Thông báo mở lại phiên tòa số 365/2022/TB-TA ngày 17-11-2022 giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Võ Văn P, sinh năm 1949 (vắng mặt) Địa chỉ: số 45 đường 769 tổ 1 ấp H, xã L, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo ủy quyền: ông Lê Hoàng M, sinh năm 1970. (có mặt) Địa chỉ: Tổ 1, khu phố S, phường T, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
- Người bị kiện: 1. Ủy ban nhân dân thị xã Phú Mỹ.
Địa chỉ: Quốc lộ 51, phường Phú Mỹ, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện:
Ông Võ Mạnh H – Phó phòng tài nguyên và môi trường thị xã Phú Mỹ. (có mặt)
Ông Nguyễn Doãn N – Trưởng phòng nghiệp vụ Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã Phú Mỹ (vắng mặt) Ông Phạm Hoàng V – Chuyên viên phòng tài nguyên môi trường thị xã Phú Mỹ (có mặt) Ông Lê Thành T – Chủ tịch UBND phường Phú Mỹ. (vắng mặt) Ông Tô Văn Q – Công chức Địa chính – Xây dựng phường Phú Mỹ. (vắng mặt)
2. Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu Địa chỉ: số 01 đường Phạm Văn Đồng, phường Phước Trung, thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện:
Ông Phan Văn M – Phó giám đốc Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. (vắng mặt) Ông Nguyễn Thành N – Chuyên viên chi cục quản lý đất đai tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt) Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1949. (vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: số 159/19/2 đường B, phường 2, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: ông Lê Hoàng M, sinh năm 1970. (có mặt) Địa chỉ: Khu phố S, phường T, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
NỘI DUNG VỤ ÁN
[1]. Quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, người khởi kiện trình bày:
Quá trình thu hồi và bồi thường đất cho ông P: Ngày 14-12-2011 UBND huyện Tân Thành (nay là thị xã Phú Mỹ) ban hành quyết định số 13763/QĐ- UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho hộ ông Võ Văn P để đầu tư xây dựng công trình: Hạ tầng khu nhà ở cán bộ, công nhân viên trong khu công nghiệp (đợt 3 bổ sung) tại thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành. Khi bồi thường, UBND huyện Tân Thành căn cứ quyết định số 56/2010/QĐ- UBND ngày 17-12-2010 của UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu để bồi thường. Ông P không đồng ý vì cho rằng UBND huyện Tân Thành không khảo sát giá đất năm 2011. Ông P khiếu nại. Ngày 18-10-2012 Chủ tịch UBND huyện Tân Thành ban hành quyết định giải quyết khiếu nại lần 1 bác đơn của ông P. Ngày 04-9-2019 Chủ tịch UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã ban hành quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 bác đơn khiếu nại của ông P. Ông P khởi kiện tại Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu yêu cầu hủy quyết định bồi thường và buộc Ủy ban nhân dân thị xã Phú Mỹ khảo sát lại giá đất theo giá thị trường. Ngày 27-5-2020, Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã ban hành bản án số 14/2020/HC-ST chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông P.
Thực hiện bản án số 14/2020 ngày 06-4-2022 UBND thị xã Phú Mỹ ban hành quyết định 483/QĐ-UBND ngày 06-4-2022 của UBND thị xã Phú Mỹ với giá đất được phê duyệt theo quyết định số 16 của UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Tại đơn khởi kiện ngày 04-5-2022, ông Võ Văn P khởi kiện UBND thị xã Phú Mỹ đối với quyết định hành chính số 483/QĐ-UBND ngày 06-4-2022 của UBND thị xã Phú Mỹ về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho hộ ông Võ Văn P để đầu tư xây dựng công trình: Hạ tầng khu nhà ở cán bộ, công nhân viên trong khu công nghiệp (đợt 3 bổ sung) tại thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành. Ông P yêu cầu Tòa án tuyên hủy quyết định số 483/QĐ-UBND ngày 06-4-2022 tcủa UBND thị xã Phú Mỹ và buộc UBND thị xã Phú Mỹ phải bồi thường theo giá đất tại thời điểm chi trả bồi thường với lý do: UBND thị xã Phú Mỹ lấy giá đất khảo sát năm 2011 là không đúng với điểm a khoản 2 Điều 9 Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03-12-2004;
Ngày 14-10-2022 ông Võ Văn P có đơn khởi kiện bổ sung đối với UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đối với quyết định số 16/QĐ-UBND ngày 10-01-2022. Yêu cầu hủy toàn bộ quyết định này.
Lý do: Quyết định này của UBND thị xã Phú Mỹ và Quyết định của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu phê duyệt giá đất cụ thể của ông Võ Văn P theo giá đất khảo sát năm 2011 là không đúng và trái quy định pháp luật.
[2] Quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, Ủy ban nhân dân thị xã Phú Mỹ trình bày:
UBND thị xã Phú Mỹ căn cứ quyết định số 16/QĐ-UBND ngày 10-01-2022 của UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu để ban hành quyết định số 483 ngày 06-4-2022 của UBND thị xã Phú Mỹ. Cụ thể:
Thực hiện Bản án số 14/2020/HC-ST ngày 27/5/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đối với vụ kiện ông Võ Văn P.
Nội dung khởi kiện của ông Võ Văn P: yêu cầu khảo sát lại giá đất để tính bồi thường. Bản án số 14/2020/HC-ST ngày 27/5/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh quyết định như sau:
“1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Võ Văn P về việc xác định lại giá đất thu hồi.
Hủy phần về giá đất bồi thường tại các quyết định sau:
Quyết định số 13763/QĐ-UBND ngày 14/12/2011 của UBND huyện Tân Thành về việc phê duyệt phương án, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho hộ ông Võ Văn P; Quyết định số 8100/QĐ-UBND ngày 18/10/2012 của Chủ tịch UBND huyện Tân Thành về việc giải quyết khiếu nại của ông Võ Văn P; Quyết định số 2316/QĐ-UBND ngày 04/9/2019 của Chủ tịch UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu về việc giải quyết khiếu nại của ông Võ Văn P (lần 2). Buộc Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền khảo sát lại giá đất diện tích 7.572,8m2 (trong đó có 300m2 đất ở) thuộc các thửa 190, 191, 192, 193, 194, 403,417 tờ bản đồ số 20 phường Phú Mỹ, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu để bồi thường cho hộ ông Võ Văn P theo đúng quy định của pháp luật.
(UBND huyện Tân Thành nay là UBND thị xã Phú Mỹ).” Ngày 13/7/2020, Sở Tài nguyên và Môi trường có Văn bản số 4454/STNMT- CCQLĐĐ về việc báo cáo về thi hành Bản án hành chính sơ thẩm số 14/2020/HC- ST ngày 27/5/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu (vụ kiện của ông Võ Văn P ở tỉnh Đồng Nai).
Ngày 03/8/2020, UBND tỉnh có Văn bản số 7933/UBND-VP về việc thi hành bản án hành chính đã có hiệu lực pháp luật (vụ kiện của ông Võ Văn P ở tỉnh Đồng Nai). UBND tỉnh chỉ đạo như sau: Giao UBND thị xã Phú Mỹ chủ trì, phối hợp với cơ quan, đơn vị liên quan tổ chức thi hành Bản án số 14/2020/HC-ST ngày 27/5/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh theo quy định pháp luật. Báo cáo kết quả thực hiện về Tòa án nhân dân tỉnh, Cục Thi hành án dân sự tỉnh.
Căn cứ Quyết định số 16/QĐ-UBND ngày 10/01/2022 của UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về việc phê duyệt giá đất cụ thể để tính bồi thường về đất đối với hộ ông Võ Văn P thuộc dự án Hạ tầng khu nhà ở cho công nhân trong khu công nghiệp tại Phú Mỹ và mở rộng lộ giới đường theo quy hoạch để làm lối vào, theo các Bản án số 14/2020/HC-ST ngày 27/5/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Ngày 06/4/2022, UBND thị xã Phú Mỹ có Quyết định số 483/QĐ-UBND về việc phê duyệt kinh phí bồi thường về đất thực hiện theo Bản án số 14/2020/HC- ST ngày 27/5/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cho hộ Võ Văn P thuộc dự án: Hạ tầng khu nhà ở CB-CNV trong khu công nghiệp thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành (nay là phường Phú Mỹ, thị xã Phú Mỹ).
Ông Võ Văn P đã nhận toàn bộ kinh phí bồi thường về đất với số tiền là 1.943.980.100 đồng.
Ủy ban nhân dân thị xã Phú Mỹ không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông P.
[3]. Quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trình bày:
Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu không có văn bản có ý kiến gửi Tòa. Tại phiên tòa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đề nghị Tòa bác đơn khởi kiện của ông P và giữ nguyên quyết định 16 của UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
[4]. Quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, đại diện bà Nguyễn Thị H trình bày:
Bà H là vợ của ông P. Bà H nhất trí toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông P và không có ý kiến; không có yêu cầu gì khác.
[5]. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:
Về trình tự thủ tục tố tụng: Người khởi kiện chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật. Người bị kiện chưa chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ khi tham gia tố tụng. Tòa án đã thực hiện đúng theo quy định Luật tố tụng hành chính. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thực hiện đúng các quy định về trình tự thủ tục tố tụng, các đương sự thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định.
Về nội dung: Việc xác định sai giá đất của ông P do UBND thị xã Phú Mỹ (trước đây là UBND huyện Tân Thành); UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu là lỗi của cơ quan nhà nước nên áp dụng điều 11 và khoản 4 Điều 39 Nghị định 69/2009 và khoản 2 Điều 9 Nghị định 197/2014 đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông P.
Về án phí hành chính sơ thẩm: Ủy ban nhân dân thị xã Phí Mỹ và Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phải chịu án phí hành chính theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của kiểm sát viên. Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận định:
[1]. Về tố tụng: Người bị kiện đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 157, Điều 158 Luật tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt là đúng quy định.
[2].Về đối tượng khởi kiện: Ông Võ Văn P khởi kiện Ủy ban nhân dân thị xã Phú Mỹ và Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – vũng Tàu yêu cầu Tòa án hủy quyết định số 483/QĐ-UBND ngày 06-4-2022 của UBND thị xã Phú Mỹ về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho hộ ông Võ Văn P để đầu tư xây dựng công trình hạ tầng khu nhà ở cán bộ, công nhân viên trong khu công nghiệp tại thị trấn Phú Mỹ và yêu cầu hủy Quyết định số 16/QĐ-UBND ngày 10- 01-2022 của UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu về việc phê duyệt giá đất cụ thể bồi thường cho hộ ông Võ Văn P.
Căn cứ khoản 1 Điều 30, khoản 3 và 4 Điều 32 Luật tố tụng hành chính thì đối tượng khởi kiện trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
[3]. Về thời hiệu khởi kiện:
Ngày 04-5-2022. ông Võ Văn P khởi kiện UBND thị xã Phú Mỹ quyết định hành chính số 483 trên và ngày 14-10-2022 ông Võ Văn P có đơn khởi kiện bổ sung Quyết định số 16 trên của UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính thì ông P khởi kiện trong thời hiệu khởi kiện.
[4]. Thẩm quyền ban hành quyết định hành chính: Quyết định hành chính số 483/QĐ-UBND ngày 06-4-2022 của UBND thị xã Phú Mỹ và Quyết định số 16/QĐ-UBND ngày 10-01-2022 của UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu được ban hành đúng quy định Luật Đất Đai 2013 và các Nghị định hướng dẫn của Chính Phủ.
[5]. Xét nội dung yêu cầu khởi kiện:
Ngày 14-12-2011 Ủy ban nhân dân huyện Tân Thành (nay là UBND thị xã Phú Mỹ) ban hành quyết định số 13763/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho hộ ông Võ Văn P để đầu tư xây dựng công trình: Hạ tầng khu nhà ở cán bộ, công nhân viên trong khu công nghiệp (đợt 3 bổ sung) tại thị trấn Phú Mỹ, huyện Tân Thành. Khi bồi thường, UBND huyện Tân Thành căn cứ quyết định số 56/2010/QĐ-UBND ngày 17-12-2010 của UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu để bồi thường. Ông P không đồng ý việc áp giá bồi thường năm 2010 nên khởi kiện tại Tòa án yêu cầu hủy quyết định hành chính trên và đề nghị Tòa buộc Ủy ban nhân dân thị xã Phú Mỹ phải bồi thường theo giá thị trường tại thời điểm chi trả. Tại bản án đã có hiệu lực pháp luật số 14/2020/HC-ST ngày 27/5/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh quyết định hủy quyết định số 13763/QĐ- UBND ngày 14-12-2011 của UBND huyện Tân Thành; Quyết định số 8100/QĐ- UBND ngày 18-10-2012 của Chủ tịch UBND huyện Tân Thành về giải quyết khiếu nại của ông Võ Văn P; hủy Quyết định số 2316/QĐ-UBND ngày 04/9/2019 của Chủ tịch UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu về việc giải quyết khiếu nại của ông Võ Văn P (lần 2). Buộc Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền khảo sát lại giá đất diện tích 7.572,8m2 (trong đó có 300m2 đất ở) thuộc các thửa 190, 191, 192, 193, 194, 403,417 tờ bản đồ số 20 phường Phú Mỹ, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu để bồi thường cho hộ ông Võ Văn P theo đúng quy định của pháp luật. Như vậy, lỗi dẫn đến việc chậm trễ bồi thường cho ông Võ Văn P hoàn toàn thuộc về Ủy ban nhân dân thị xã Phú Mỹ và Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Trường hợp đối với lỗi của cơ quan nhà nước dẫn đến việc chậm bồi thường trước khi luật đất đai 2013 có hiệu lực pháp luật (ngày 01-7-2014), tại điểm a khoản 2 Điều 9 Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03-12-2004 quy định :
“ 2. Trường hợp thực hiện bồi thường chậm được quy định như sau:
a) Bồi thường chậm do cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường gây ra mà giá đất tại thời điểm bồi thường do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh công bố cao hơn giá đất tại thời điểm có quyết định thu hồi thì bồi thường theo giá đất tại thời điểm trả tiền bồi thường; nếu giá đất tại thời điểm bồi thường thấp hơn giá đất tại thời điểm có quyết định thu hồi thì bồi thường theo giá đất tại thời điểm có quyết định thu hồi” Tuy nhiên, tại Điều 1 Quyết định số 16 của UBND tỉnh ghi: “Nay phê duyệt giá đất cụ thể để tính tiền bồi thường về đất tại thời điểm tháng 12 năm 2011 đối với hộ ông Võ Văn P thuộc dự án: Hạ tầng khu nhà ở công nhân trong khu công nghiệp Phú Mỹ…” và từ đó UBND thị xã Phú Mỹ dựa trên quyết định này để ban hành quyết định 483 bồi thường cho ông P. Việc áp dụng pháp luật này của Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và Ủy ban nhân dân thị xã Phú Mỹ chưa đúng và chưa đảm bảo quyền lợi của ông P.
Từ những phân tích trên, xét thấy có căn cứ để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện, đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu hủy 1 phần quyết định hành chính số 483/QĐ-UBND ngày 06-4-2022 của UBND thị xã Phú Mỹ đối với phần xác định giá đất bồi thường theo Quyết định số 16 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và hủy toàn bộ quyết định số 16/QĐ-UBND ngày 10-01-2022 của UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu về việc phê duyệt giá đất cụ thể bồi thường cho hộ ông Võ Văn P. Buộc Ủy ban nhân dân thị xã Phú Mỹ phải khảo sát lại giá đất cụ thể tại thời điểm chi trả bồi thường để tính giá đất bồi thường cho ông P. Do ông P đã nhận tổng số tiền bồi thường là 1.943.980.100 đồng nên số tiền thực tế ông P được nhận sẽ là tổng số tiền được bồi thường sau khi khảo sát giá trừ đi số tiền đã nhận bồi thường trên.
Về án phí hành chính sơ thẩm: Do chấp nhận một phần yêu cầu của người khởi kiện nên Ủy ban nhân dân thị xã Phú Mỹ; Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu mỗi cơ quan phải nộp án phí hành chính sơ thẩm là 300.000 đồng theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 30; khoản 3, 4 Điều 32; Điều 157; Điều 158; điểm b khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính;
Áp dụng Điều 42 Luật đất đai 2003; điểm a khoản 2 Điều 9 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03-12-2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất’ khoản 2 Điều 4 Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27-01-2006 của Chính Phủ;
Căn cứ khoản 2 Điều 32 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Võ Văn P hủy một phần quyết định hành chính số 483/QĐ-UBND ngày 06-4-2022 của UBND thị xã Phú Mỹ đối với phần xác định giá đất bồi thường theo Quyết định số 16 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và hủy toàn bộ quyết định số 16/QĐ-UBND ngày 10/1/2022 của UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu về việc phê duyệt giá đất cụ thể bồi thường cho hộ ông Võ Văn P.
2. Buộc Buộc Ủy ban nhân dân thị xã Phú Mỹ phải khảo sát lại giá đất cụ thể tại thời điểm chi trả bồi thường để tính giá đất bồi thường cho ông P.
3. Về án phí hành chính sơ thẩm: Ủy ban nhân dân thị xã Phú Mỹ; Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu mỗi cơ quan phải nộp án phí hành chính sơ thẩm là 300.000 đồng theo quy định pháp luật.
4. Thời hạn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm là 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đối với các đương sự không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày tính từ ngày bản án đươc giao hoặc niêm yết theo quy định pháp luật. Đối với các đương sự có mặt tại phiên tòa, các đương sự vắng mặt khi Tòa tuyên án mà không có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí M giải quyết lại theo trình tự phúc thẩm.
Bản án 126/2022/HC-ST về khiếu kiện hành chính trong lĩnh vực bồi thường đất đai
Số hiệu: | 126/2022/HC-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 29/11/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về