Bản án 99/2021/HNGĐ-ST ngày 07/05/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 99/2021/HNGĐ-ST NGÀY 07/05/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 07 tháng 5 năm 2021 tại Tòa án nhân dân thành phố L xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 144/2021/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 3 năm 2021 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo số: 172/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị N, sinh năm 1991. Có mặt Địa chỉ: Số 121/1, ấp B, xã K, thành phố L, tỉnh An Giang. Nơi cư trú hiện nay: Ấp A, xã C, huyện T, tỉnh An Giang.

2. Bị đơn: Ông Phạm Hoàng L, sinh năm 1985. Có mặt Địa chỉ: Số 121/1, ấp B, xã K, thành phố L, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 09/3/2021 và quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn bà Huỳnh Thị N trình bày:

Năm 2011, bà Huỳnh Thị N và ông Phạm Hoàng L quen biết, tìm hiểu qua mai mối gia đình và tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K, thành phố L (Giấy chứng nhận kết hôn số 29, quyển số 01 ngày 14/4/2011), đây là hôn nhân lần thứ nhất của bà N và ông L. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm, tính tình không phù hợp nên vợ chồng thường xuyên xảy ra bất hòa, ông L không có trách nhiệm với gia đình, thường xuyên uống rượu và có hành vi bạo hành gia đình nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông L. Về con chung: Có 02 con chung tên Phạm Thị Kim N, sinh ngày 13/4/2012 và Phạm Thị Ngọc N, sinh ngày 03/02/2018, hiện con chung do bà N chăm sóc, nuôi dưỡng nên yêu cầu được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu ông Lộc cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung:

Không có.

Bị đơn Phạm Hoàng L thống nhất với lời trình bày của bà N về thời gian tìm hiểu và tiến đến hôn nhân. Quá trình chung sống, ông và bà N có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bà N không chung thủy, thường xuyên nhắn tin cho người yêu cũ và xưng hô với nhau như vợ chồng. Ông L đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng bà N không thay đổi nên cả hai có xảy ra cự cãi và ông có dùng vũ lực với bà N, hiện ông rất hối hận về việc này, xin bà N tha thứ để hàn gắn quan hệ hôn nhân. Về con chung: Thống nhất có 02 con chung với bà N trình bày, hiện các con đang sống cùng gia đình, trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà N thì ông yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu bà N cấp dưỡng. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Tại phiên tòa Hôn nhân và gia đình sơ thẩm:

Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện;

Bị đơn không đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét, tạo điều kiện cho vợ chồng được đoàn tụ để chăm sóc, nuôi dưỡng con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ ý kiến của các đương sự tại bản tự khai, Tòa án nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn là tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoả n 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn đăng ký thường trú thành phố L nên nguyên đơn khởi kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố L theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung tranh chấp

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ giấy chứng nhận kết hôn 29, quyển số 01 ngày 14/4/2011 của Ủy ban nhân dân xã K, thành phố L, thể hiện giữa nguyên đơn, bị đơn tiến đến hôn nhân xuất phát từ sự tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, phù hợp Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận. Tuy nhiên, nguyên đơn cho rằng quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, thiếu sẻ chia, cảm thông nhau trong cuộc sống vợ chồng, bị đơn ghen tuông vô cớ và có dùng bạo lực nên nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Bị đơn không đồng ý ly hôn, tha thiết yêu cầu nguyên đơn suy nghĩ lại, vì mỗi bên đều có lỗi và hứa sẽ khắc phục những sai lầm trước đây để vợ chồng đoàn tụ lo cho các con. Xét thấy, lý do mà nguyên đơn đưa ra để cho rằng mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng và yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn bị đơn là chưa có tính thuyết phục, bởi lẽ trong quan hệ hôn nhân vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, tin tưởng nhau và chia sẻ những khó khăn để vượt qua thử thách, đây là cơ sở vững chắc để bồi đắp cho hôn nhân, cho gia đình hạnh phúc nhưng nguyên đơn cũng chưa toàn tâm toàn ý cùng bị đơn để bảo vệ hôn nhân, chính bản thân nguyên đơn đã góp phần tạo ra mâu thuẫn trong việc nhắn tin qua điện thoại cho người bạn khác giới với lời lẽ, cách xưng hô gây hiểu lầm, dẫn đến vợ chồng cự cãi, không tin tưởng nhau nhưng tình trạng hôn nhân chưa đến mức trầm trọng, tình cảm vợ chồng có thể hàn gắn để xây dựng gia đình hạnh phúc. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu nguyên đơn, tạo điều kiện cho nguyên đơn, bị đơn có thời gian suy nghĩ và có quyết định chính chắn đối với vấn đề hôn nhân của mình.

[2.2] Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Do không chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn nên các vấn đề về con chung, tài sản chung, nợ chung, Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Nguyên đơn phải nộp án phí hôn nhân sơ thẩm theo qui định pháp luật.

[4] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 235; Điều 266; khoản 1 Điều 273; khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Điều 51; Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và án phí Tòa án.

Tuyên xử:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Huỳnh Thị N đối với bị đơn Phạm Hoàng L.

[2] Về con chung, tài sản chung, nợ chung: Do không chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn nên các vấn đề về con chung, tài sản chung, nợ chung, Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí hôn nhân sơ thẩm Nguyên đơn Huỳnh Thị N phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm, được khấu trừ vào tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0007546 ngày 10/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L. Nguyên đơn đã thực hiện xong.

[4] Về quyền kháng cáo Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

(Giải thích điều 26 Luật Thi hành án dân sự) 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 99/2021/HNGĐ-ST ngày 07/05/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:99/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;