TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 48/2018/DSST NGÀY 24/10/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Trong ngày 24 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 104 /2018/ TLST – HNGĐ ngày 19/7/2018 về tranh chấp hôn nhân gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2018/QĐXX – ST ngày 21 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hoài T - sinh năm 1984 (có mặt). Nơi đăng ký HKTT: Thôn H, xã P, thành phố B, tỉnh Thái Bình
Bị đơn: Anh Đặng Văn K - sinh năm 1985 (vắng mặt). Nơi cư trú: Thôn H, xã P, thành phố B, tỉnh Thái Bình.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai của chị T trình bày: Chị T kết hôn với anh K từ ngày 09/3/2006 có đăng ký kết hôn tại UBND xã P, thành phố B. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận được thời gian ngắn thì mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng tính tình không hợp nhau và bất đồng quan điểm sống. Anh K không có trách nhiệm với gia đình.Vì thế cuộc sống vợ chồng luôn căng thẳng áp lực không có hạnh phúc dẫn tới tình cảm vợ chồng không còn.Vợ chồng có xảy ra va chạm cãi nhau.Vợ chồng đã tự giải quyết với nhau nhiều lần và được gia đình khuyên bảo giúp đỡ nhưng không có kết quả. Tháng 3 năm 2018 chị T có đơn ly hôn, Tòa án hòa giải chị T rút đơn về đoàn tụ nhưng vợ chồng vẫn tiếp tục mâu thuẫn chị bỏ về nhà bố mẹ đẻ sống ly thân từ tháng 6/2018 đến nay. Chị T có về thăm con thì bị anh K dùng búa, dao đe dọa. Nay xét thấy vợ chồng không còn tình cảm không thể chung sống hạnh phúc chị T xin ly hôn với anh K.
2. Về quan hệ con chung: Vợ chồng có hai con chung là Đặng Diệu L sinh ngày 05/8/2007 và Đặng Thùy D, sinh ngày 06/8/2010. Hiện nay các con chung đang sống với anh K. Ly hôn, chị T đề nghị xin nuôi cả hai con không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con.
3.Về quan hệ tài sản: Vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Anh Đặng Văn K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng không đến Tòa án. Qua xác minh chính quyền địa phương cho biết về biểu hiện bên ngoài vợ chồng không có mâu thuẫn gì còn mâu thuẫn nội bộ vợ chồng không rõ. Tuy nhiên anh K là người nghiện ma túy và có tiền án về tội ma túy. Chị T đã bỏ về nhà bố mẹ sống, kể từ tháng 6/2018 đến nay chị T không có mặt tại địa phương.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình như sau: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của bộ luật tố tụng dân sự. Đối với anh K đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào các khoản 5; 16 ; 25 điều 70 và khoản 4 điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự quy định: “Đương sự phải cung cấp tài liệu,chứng cứ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”. “Phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án và chấp hành quyết định của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án”; “Trường hợp không thực hiện nghĩa vụ thì phải chịu hậu quả do Bộ luật quy định”. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc đưa ra không đầy đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án”. Căn cứ điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt anh K.
Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Hoài T. Về con chung đề nghị giao cả hai con chung cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, anh K chưa phải cấp dưỡng nuôi con cho chị T.Về tài sản không đặt ra giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra và kết quả tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1]Về tố tụng: Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng anh K không có mặt không có lý do. Vì vậy Tòa án căn cứ điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung, xét xử vắng mặt anh K.
[2]Về quan hệ hôn nhân: Chị T kết hôn với anh K từ ngày 09/3/2006 có đăng ký kết hôn tại UBND xã P, thành phố B là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống. Tháng 3 năm 2018 chị T đã có đơn ly hôn và đã được Tòa án hòa giải chị T rút đơn đoàn tụ gia đình. Tuy nhiên vợ chồng tiếp tục mâu thuẫn chị T đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sống ly thân từ tháng 6/2018 đến nay. Nay chị T có đơn đề nghị ly hôn. Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhưng anh K không đến Tòa án, không nộp bản tự khai, không có ý kiến gì về việc ly hôn, nuôi con và giải quyết về tài sản, vì vậy Tòa án không thể tiến hành hòa giải để giải quyết mâu thuẫn vợ chồng đoàn tụ gia đình được. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã phân tích động viên chị T về đoàn tụ gia đình nhưng chị T vẫn kiên quyết ly hôn.Vì vậy căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, xét thấy mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, ly thân kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên xử cho chị T được ly hôn với anh K.
[3]Về con chung: Xét thấy điều kiện hoàn cảnh của vợ chồng nên giao cho mỗi người nuôi một con là phù hợp. Giao cho chị T nuôi con Đặng Thùy D, sinh ngày 06/8/2010 và giao cho anh K nuôi con Đặng Diệu L, sinh ngày 05/8/2007. Hai bên không phải cấp dưỡng cho nhau. Hai bên đều có quyền thăm con chung không ai được ngăn cản. Hai bên đều có quyền thay đổi nuôi con theo quy định của pháp luật.
[4] Về tài sản chung: Chị T không đề nghị Tòa án giải quyết. Anh K chưa có ý kiến gì nên không đặt ra giải quyết trong vụ án này.
[5] Về án phí: Các đương sự phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 51; 56; 81;82; 83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Căn cứ điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự. Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016.
1/ Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Hoài T được ly hôn với anh Đặng Văn K.
2/ Về con chung: Xử giao cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng con Đặng Thùy D, sinh ngày 06/8/2010 và giao cho anh K trực tiếp nuôi dưỡng con Đặng Diệu L, sinh ngày 05/8/2007. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau. Hai bên đều có quyền thăm con chung không ai được ngăn cản. Hai bên đều có quyền thay đổi nuôi con theo quy định của pháp luật
3/ Về tài sản chung: Không đặt giải quyết trong vụ án này.
4/ Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn. Khấu trừ số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí biên lai số 000 7143ngày 19/7/2018.
5/ Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày. Đối với người có mặt kể từ ngày tuyên án 24/10/2018. Đối với người vắng mặt kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án.
Bản án 48/2018/DSST ngày 24/10/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 48/2018/DSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 24/10/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về