TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 98/2021/HSST NGÀY 24/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24 tháng 05 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 91/2021/HSST ngày 04 tháng 05 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 397/HSST-QĐ ngày 10 tháng 05 năm 2021 đối với bị cáo:
MÔNG THỊ TUYẾT M, sinh năm 1985 tại Đồng Nai; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp 3, xã L, huyện T, tỉnh Đồng Nai; Chỗ ở: Số 55, ngõ 30, phố P, phường T, quận N, Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn:9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Nùng; Tôn giáo: Không; Con ông: Mông Văn H và bà Trương Thị H; Có chồng là Lê Duy Q và 03 con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt quả tang ngày 12/01/2021. Bị cáo tại ngoại, áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú - Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 23 giờ 30 phút ngày 11/01/2021, tổ công tác Công an phường Phương Liệt đang làm nhiệm vụ tại khu vực ngõ 214, đường Nguyễn Xiển, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội, phát hiện Mông Thị Tuyết M có biểu hiện nghi vấn về ma túy. Tổ công tác đã yêu cầu kiểm tra hành chính và đưa M về trụ sở để làm rõ. Tại Cơ quan công an, M quanh co, chống đối không hợp tác. Khi tổ công tác yêu cầu M cởi áo khoác đang mặc ra để kiểm tra thì từ ống tay trái áo khoác của M rơi ra 01 gói nilon màu trắng kích thước khoảng 4 x 4cm, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng, M khai là ma túy “đá” mang theo để sử dụng. Tiếp tục yêu cầu M cởi hẳn áo khoác ra, tổ công tác phát hiện từ trong áo khoác của M rơi xuống đất 01 túi nilon màu trắng kích thước khoảng 4 x 4cm chứa chất bột màu trắng, bên ngoài bọc bằng giấy ăn. M khai không biết gói chất bột màu trắng ở đâu ra và không thừa nhận đó là của M. Quá trình kiểm tra M, có 02 người làm chứng là anh Văn Việt A và chị Đỗ Thị Y. Những người này đều chứng kiến và thừa nhận gói nilon chứa chất bột màu trắng rơi xuống từ áo khoác đang mặc trên người của M. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản và niêm phong tang vật.
Tại bản Kết luận giám định số 684/KLGĐ-PC09 ngày 19/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành số Hà Nội kết luận: “Tinh thể màu trắng bên trong 01 gói nilon là ma tuý loại Methamphetamine, khối lượng 2,373 gam”; “Chất bột màu trắng bên trong một gói nilon là ma túy loại Heroin, khối lượng 2,562 gam”.
Tại cơ quan điều tra, Mông Thị Tuyết M khai nhận: Khoảng 19 giờ 00 ngày 11/01/2021, M đi “xe ôm” lên khu vực Long Biên để mua ma túy, tại đây, M gặp và mua của 01 người đàn ông tên H 01 gói ma túy “đá” với giá 1.000.000 đồng. Sau đó, M cất gói ma tuý vào ống tay áo khoác đang mặc và đi giải quyết việc cá nhân. Đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, khi M đang đi bộ trong ngõ 214, đường Nguyễn Xiển thuộc phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân thì bị lực lượng Công an kiểm tra hành chính và đưa về trụ sở để làm rõ. Tại cơ quan Công an, khi M cởi áo khoác đang mặc thì rơi ra gói nilon chứa ma túy “đá”, M mang theo để sử dụng cho bản thân. Đối với 01 gói ma túy rơi dưới đất, M không biết ở đâu ra và không thừa nhận là của M.
Người làm chứng - anh Văn Việt A khai: Khoảng 23 giờ 40 phút, anh được Cơ quan công an mời về trụ sở Công an phường Hạ Đình chứng kiến quá trình kiểm tra hành chính 01 người nữ giới (sau này anh được biết tên là Mông Thị Tuyết M, sinh năm 1985, HKTT: Ấp 3, xã L, huyện T, tỉnh Đồng Nai). Quá trình kiểm tra, người nữ giới khai đang mang theo ma túy trong người và tự tay lấy ra từ tay áo khoác đang mặc 01 gói nilon kích thước 4 x 4cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng giao nộp cho Cơ quan công an. Cơ quan Công an tiếp tục yêu cầu người nữ giới cởi áo khoác đang mặc ra thì thấy từ trong áo khoác rơi xuống đất cạnh chân người nữ giới đang đứng 01 gói giấy (loại giấy ăn), bên trong có 01 gói nilong màu trắng kích thước 4 x 4cm, chứa chất bột màu trắng, người nữ giới không thừa nhận gói chất bột màu trắng là của mình.
Người làm chứng - chị Đỗ Thị Y khai: Quá trình kiểm tra, lúc đầu chị M quanh co không hợp tác nhưng sau đó thừa nhận có mang theo ma túy trong người và tự nguyện lấy ra từ trong tay áo khoác bên trái ra giao nộp 01 gói nilon nhỏ chứa tinh thể màu trắng. M khai nhận đây là ma túy “đá” mang theo để sử dụng. Khi cơ quan Công an tiếp tục yêu cầu M cới áo khoác ra để kiểm tra thì từ trong áo khoác của M rơi ra 01 gói giấy ăn, mở ra có 01 gói nilon chứa chất bột màu trắng. Mọi người có mặt ở đó đều chứng kiến sự việc nhưng M không thừa nhận gói ma túy đó là của mình.
Lời khai của người làm chứng hoàn toàn phù hợp với chứng cứ về việc kiểm tra, thu giữ ma túy của M được Cơ quan Công an ghi lại bằng hình ảnh.
Tại bản cáo trạng số 84/CT-VKSTX ngày 20 tháng 04 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân truy tố Mông Thị Tuyết M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên toà sau khi phân tích vai trò, tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo kết luận: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt: Mông Thị Tuyết M từ 04 đến 04 năm 06 tháng tù. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong chứa 2,373 gam Methamphetamine (PC09 đã thu mẫu giám định 0,252 gam); 01 phong bì niêm phong bên trong chứa 2,562 gam Heroin (PC09 đã thu mẫu giám định 0,226 gam); 02 túi nilon và vỏ giấy gói vật chứng; Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động kiểu dáng Nokia model TA-1114 đã qua sử dụng, số Imei 1: 354205103328974, Imei 2: 354205104328973, bên trong lắp sim 1: 0879306252, sim 2: 0848811643; 01 điện thoại Iphone màu đen, không kiểm tra được thông tin trên vỏ máy và bên trong.
Tại phiên toà: Bị cáo M thừa nhận, tại thời điểm bị bắt giữ, bị cáo đang cất giữ trái phép 02 gói ma tuý (01 gói Methamphetamine có khối lượng 2,373 gam và 01 gói Heroin có khối lượng 2,562 gam) nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Bị cáo thừa nhận nội dung, tội danh cáo trạng Viện kiểm sát truy tố là đúng.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì bị cáo đang phải một mình nuôi hai con nhỏ dưới 36 tháng tuổi.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Về tố tụng: Về các tài liệu, chứng cứ do Cơ quan điều tra Công an quận Thanh Xuân, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân thu thập; về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Thanh Xuân, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ do cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập và không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ và hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thu thập, thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về tội danh: Ngày 12/01/2021, Mông Thị Tuyết M đã có hành vi cất giữ trái phép 2,373 gam ma túy loại Methamphetamine, 2,562 gam ma tuý loại Heroin. Với kết qua điều tra, chỉ đủ căn cứ chứng minh M tàng trữ ma tuý nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, không nhằm mục đích mua, bán, vận chuyển hoặc sản xuất trái phép chất ma túy. Đối chiếu quy định của pháp luật, Mông Thị Tuyết M đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Do bị cáo tàng trữ trái phép 02 chất ma tuý mà tổng khối lượng các chất ma tuý đó tương đương khối lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự nên bị cáo phạm tội thuộc trường hợp quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Mặc dù tại cơ quan điều tra, bị cáo không thừa nhận 01 gói ma tuý loại Heroin có khối lượng 2,562 gam là của bị cáo nhưng tại phiên toà hôm nay, bị cáo thay đổi lời khai và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Viện kiểm sát truy tố bị cáo ra xét xử theo tội danh và điều luật đã viện dẫn là có căn cứ pháp lý.
Đối với đối tượng có tên H là người đã bán ma túy cho bị cáo, do không xác định được tên tuổi, địa chỉ cụ thể của H nên không có căn cứ để xử lý.
[3]. Về tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội: Ma túy là mối nguy hiểm của xã hội, bởi nó không chỉ là nguyên nhân gây ra nhiều tệ nạn xã hội, làm thiệt hại kinh tế, gây suy thoái đạo đức và lối sống mà còn là nguyên nhân làm phát sinh nhiều tội phạm nguy hiểm. Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Do tính chất nghiêm trọng của vụ án, để đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm về ma túy nói riêng, cần thiết phải xử lý bị cáo bằng pháp luật hình sự.
[4]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Tuy nhiên, để cải tạo, giáo dục bị cáo và làm bài học răn đe người khác, cần áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian.
Mặc dù, tại Cơ quan điều tra, bị cáo không thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình nhưng tại phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn, hối cải nên Hội đồng xét xử có căn cứ áp dụng tình tiết “thành khẩn khai báo” để giảm một phần hình phạt cho bị cáo quy định điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma tuý, không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.
[6]. Về vật chứng: 01 phong bì niêm phong bên trong chứa 2,373 gam Methamphetamine (PC09 đã thu mẫu giám định 0,252gam); 01 phong bì niêm phong bên trong chứa 2,562 gam Heroin (PC09 đã thu mẫu giám định 0,226 gam) thu giữ của bị cáo là chất Nhà nước cấm tàng trữ, 02 túi nilon và vỏ giấy gói vật chứng là vật dùng vào việc phạm tội, hiện không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu huỷ.
Ngoài ra, khi bắt giữ bị cáo, cơ quan công an còn thu giữ của bị cáo 01 điện thoại di động kiểu dáng Nokia model TA-1114 đã qua sử dụng, số Imei 1:
354205103328974, Imei 2: 354205104328973, bên trong lắp sim 1:
0879306252, sim 2: 0848811643; 01 điện thoại Iphone màu đen, không kiểm tra được thông tin trên vỏ máy và bên trong. Xét đây là tài sản của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.
[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
[8]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 - Căn cứ Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án [1]. Xử phạt: Mông Thị Tuyết M 04 (bốn) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
[2]. Về vật chứng (Hiện đang lưu giữ tại chi cục thi hành án dân sự quận Thanh Xuân theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/04/2021):
- 01 phong bì niêm phong bên trong chứa 2,373 gam Methamphetamine (PC 09 đã thu mẫu giám định 0,252 gam), 01 phong bì niêm phong bên trong chứa 2,562 gam Heroin (PC 09 đã thu mẫu giám định 0,226 gam), 02 vỏ túi nilon và vỏ giấy bao gói vật chứng thu giữ của bị cáo.
- Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động kiểu dáng Nokia model TA -1114 đã qua sử dụng, số Imei 1: 354205103328974, Imei 2: 354205104328973, bên trong lắp sim 1: 0879306252, sim 2: 0848811643; 01 điện thoại Iphone màu đen, không kiểm tra được thông tin trên vỏ máy và bên trong.
[3].Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[4].Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án;
Bản án 98/2021/HSST ngày 24/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 98/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Thanh Xuân - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/05/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về