Bản án 97/2024/HS-PT về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PH H CHÍ MINH

BẢN ÁN 97/2024/HS-PT NGÀY 01/02/2024 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Trong các ngày 25 đến ngày 01 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố H xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 962/2023/TLPT-HS ngày 10 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Quốc P và các đồng phạm, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 154/2023/HS-ST ngày 26-9-2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đ.

Các bị cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Quốc P, sinh ngày 20 tháng 09 năm 1992, tại Đ.

Nơi cư trú: Ấp B, xã S, huyện X, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn V, sinh năm 1956 và bà Lâm Thị T, sinh năm 1964; Bị cáo có 04 anh chị em, bị cáo là con thứ ba và chưa có vợ, con; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 22/10/2020, bị Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc ra quyết định đưa đi cai nghiện ma túy bắt buộc tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đ, trong thời gian 16 tháng. Bị bắt tạm giam ngày 29/6/2021. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Nguyễn Văn P1, sinh ngày 22 tháng 06 năm 1998, tại: Đ.

Nơi cư trú: Khu phố L, thị trấn D, huyện T, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1965 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1972 (tên gọi khác Đỗ Thị T2); Bị cáo có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ ba và chưa có vợ, con.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 15/10/2020, bị Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất ra quyết định đưa đi cai nghiện ma túy bắt buộc tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đ, trong thời gian 18 tháng; Bị bắt tạm giam ngày 29/6/2021. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3. Họ và tên: Nguyễn Trường C, sinh ngày 05 tháng 4 năm 1988 tại: Đ.

Nơi thường trú: ấp V, xã L, huyện N, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1956 (đã chết) và bà Trần Thị N, sinh năm 1962; Bị cáo có 04 anh chị em, bị cáo là con thứ hai. Sống chung như vợ chồng với chị Phạm Thị Hồng Y, sinh năm 1988 và có 01 con chung, sinh năm 2014;

Tiền án:

- Ngày 21/7/2010, bị Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Đ xử phạt 01 năm 02 tháng tù giam về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Bị cáo chưa chấp hành xong bản án về phần bồi thường dân sự.

- Ngày 01/02/2016, bị Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Đ tuyên phạt 01 năm 04 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo chưa chấp hành xong bản án về phần án phí và bồi thường dân sự.

Tiền sự:

Ngày 29/5/2020 bị Tòa án nhân dân huyện N ra quyết định đưa đi cai nghiện ma túy bắt buộc tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đ, trong thời gian 24 tháng.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 17/12/2022. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

4. Họ và tên: Lê Hoàng S, sinh 25/12/1991, tại: Đ Nơi cư trú: Ấp Nhân Hòa, xã Tây Hòa, huyện Trảng Bom, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Viết T3, sinh năm 1947 và bà Đỗ Thị L, sinh năm 1955; Bị cáo có 05 anh em, bị cáo là con thứ năm và chưa có vợ, con.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 01/12/2020, bị Ủy ban nhân dân xã T, huyện T ra quyết định đưa đi cai nghiện ma túy bắt buộc tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đ, trong thời gian 16 tháng.

Nhân thân: Vào ngày 29/02/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đ xử phạt 10 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Bị cáo đã chấp hành xong bản án.

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 29/6/2021. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

5. Họ và tên: Trương Hoàng T4, sinh 14/01/1986, tại: Đ.

Nơi cư trú: Ấp P, xã Đ, huyện N, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trương Văn T5, sinh năm 1964 và bà (không rõ họ tên, năm sinh); Bị cáo có 03 anh em, bị cáo là con thứ hai và chưa có vợ, con;

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 10/12/2020, bị Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện N ra quyết định đưa đi cai nghiện ma túy bắt buộc tại cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đ, trong thời gian 16 tháng.

Bị bắt tạm giam ngày 29/6/2021. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

6. Họ và tên: Hoàng Ngọc L1, sinh 10/03/1987, tại: Đ.

Nơi cư trú: Ấp C, xã X, huyện X, tỉnh Đ.

Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hoàng Ngọc L2, sinh năm 1958 và bà Đoàn Thị Mỹ L3, sinh năm 1968; Bị cáo có 05 anh em, bị cáo là con thứ nhất và chưa có vợ, con;

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 09/12/2020, bị Ủy ban nhân dân xã X, huyện X ra quyết định đưa đi cai nghiện ma túy bắt buộc tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đ.

Bị bắt tạm giam ngày 29/6/2021. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

7. Họ và tên: Nguyễn Thanh Đ, sinh 15/12/1974, tại: Đ.

Nơi đăng ký thường trú: số B, Khu phố A, phường H, thành phố B, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Thợ hồ; Trình độ học vấn: 3/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Thanh D, sinh năm (không rõ, đã chết) và bà Nguyễn Thị N1, sinh năm (không rõ, đã chết); Bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất và chưa có vợ, con;

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 15/6/2020, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đ ra quyết định đưa đi cai nghiện ma túy bắt buộc tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đ, trong thời gian 24 tháng.

Nhân thân:

- Ngày 01/9/1996, bị Công an quận T (nay là thành phố T), Thành phố H bắt về hành vi Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của công dân. Đến ngày 05/9/1996, Công an quận T ra quyết định hủy bỏ biện pháp ngăn chặn và trả tự do.

- Ngày 10/10/1998, bị Công an huyện T (nay thuộc huyện T), tỉnh Đ bắt về hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, nhưng không rõ kết quả xử lý.

- Ngày 01/9/2004, bị Ủy ban nhân dân thành phố B, tỉnh Đ xử lý hành chính bằng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc (thời hạn 24 tháng), vì đã có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

- Ngày 11/5/2010, bị Công an thành phố B, tỉnh Đ xử phạt hành chính 350.000 đồng, vì đã có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

- Ngày 26/5/2010, bị Ủy ban nhân dân thành phố B, tỉnh Đ xử lý hành chính bằng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc (thời hạn 24 tháng), vì đã có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị bắt tạm giam ngày 03/11/2022. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

8. Họ và tên: Bùi Trần Tường L4, sinh 13/10/1995, tại: Đ.

Nơi đăng ký thường trú: ấp c, xã p, huyện Đ, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bùi Văn S1, sinh năm 1964 và bà Trần Thị B1, sinh năm 1975; Bị cáo có 03 anh em, bị cáo là con thứ hai và chưa có vợ, con.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 10/9/2020, bị Tòa án nhân dân huyện Định Quán ra quyết định đưa đi cai nghiện ma túy bắt buộc tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đ, thời gian 18 tháng.

Bị bắt tạm giam ngày 04/11/2022. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

9. Họ và tên: Lê Văn H1, sinh 07/12/2000, tại: Đ.

Nơi đăng ký thường trú: Khu phố B, phường B, thành phố L, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12. Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn H2, sinh năm 1978 và bà Nguyễn Thị Ngọc H3, sinh năm 1978; Bị cáo có có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất và chưa có vợ, con.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 28/9/2020, bị Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh ra quyết định đưa đi cai nghiện ma túy bắt buộc tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đ, thời gian 18 tháng.

Bị bắt tạm giam ngày 03/11/2022. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

10. Họ và tên: Lê Văn G, sinh 25/11/1993, tại: cần Thơ Nơi cư trú: Khu phố 3, phường Bình Thủy, quận Bình Thủy, thành phố cần Thơ; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn Đ1, sinh năm 1958 và bà Huỳnh Thị Ngọc S2, sinh năm 1962; Bị cáo có 5 anh em, bị cáo là con thứ tư, có vợ Nguyễn Thị Yến T6, sinh năm 1995 (đã ly hôn) có 01 con sinh năm 2016.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 23/10/2020, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa ra quyết định đưa đi cai nghiện ma túy bắt buộc tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đ, trong thời gian 24 tháng.

Bị bắt tạm giam ngày 29/6/2021. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

11. Họ và tên: Lê Tứ P2, sinh 06/12/1996, tại: Đ. Nơi đăng ký thường trú: ấp F, xã X, huyện X, tỉnh Đ.

Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn C1, sinh năm 1961 và bà Phùng Thị Kim T7, sinh năm 1957. Bị cáo có 10 anh chị em, bị cáo là con thứ 10 và chưa có vợ, con.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 25/8/2020, bị Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc ra quyết định đưa đi cai nghiện ma túy bắt buộc tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đ, thời gian 20 tháng.

Nhân thân:

- Ngày 28/10/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đ xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo đã chấp hành xong bản án.

- Ngày 27/11/2017, bị Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đ xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo đã chấp hành xong bản án.

Bị bắt tạm giam ngày 07/11/2022. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

12. Họ và tên: Trần Thanh P3, sinh 12/4/1997, tại: Đ Nơi cư trú: Ấp 1, xã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 8/12. Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Bé T8, sinh năm 1970 và bà Nguyễn Thị B2, sinh năm 1976 (chết). Gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ hai và chưa có vợ, con.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 01/12/2019, bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu ra quyết định đưa đi cai nghiện ma túy bắt buộc tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đ, trong thời gian 18 tháng.

Bị bắt tạm giam ngày 29/6/2021. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa:

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Quốc P: Luật sư Nguyễn Quang T9 - Đoàn luật sư tỉnh Đ và luật sư Nguyễn Thị Quế A - Đoàn luật sư Thành Phố H (Có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn P1: Luật sư Nguyễn Thị Quế A - Đoàn luật sư Thành Phố H (Có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Lê Hoàng S: Luật sư Nguyễn Trọng N2 - Đoàn luật sư Thành Phố H (Có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Trường C: Luật sư Nguyễn Thị Quế A - Đoàn luật sư Thành Phố H (Có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Trương Hoàng T4: Luật sư Nguyễn Trọng N2 - Đoàn luật sư Thành Phố H (Có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Hoàng Ngọc L1: Luật sư Nguyễn Trọng N2 - Đoàn luật sư Thành Phố H và luật sư Nguyễn Quang T9 - Đoàn luật sư tỉnh Đ (Có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Lê Văn G: Luật sư Nguyễn Trọng N2 - Đoàn luật sư Thành Phố H và luật sư Nguyễn Quang T9 - Đoàn luật sư tỉnh Đ (Có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thanh Đ: Luật sư Trần Quý T10 - Đoàn luật sư Thành Phố H (Có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Bùi Trần Tường L4: Luật sư Trần Quý T10 - Đoàn luật sư Thành Phố H và luật sư Nguyễn Như T11 - Công ty L5 (Có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Lê Văn H1: Luật sư Trần Quý T10 - Đoàn luật sư Thành Phố H (Có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Lê Tứ P2: Luật sư Nguyễn Văn S3 - Đoàn luật sư Thành Phố H (Có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Trần Thanh P3: Luật sư Trần Trọng T12 - Đoàn luật sư Thành Phố H (Có mặt).

Bị hại: anh Nguyễn Tiên P4, sinh năm 1974 (chết).

Đại diện cho người bị hại: anh Nguyễn Trần Minh Q, sinh năm 2000. Địa chỉ: ấp B, xã S, huyện T, tỉnh Đ (Có mặt).

Người có kháng cáo: Các bị cáo Nguyễn Quốc P, Nguyễn Văn P1, Lê Hoàng S, Nguyễn Trường C, Trương Hoàng T4, Hoàng Ngọc L1, Lê Văn G, Nguyễn Thanh Đ, Bùi Trần Tường L4, Lê Văn H1, Lê Tứ P2 và Trần Thanh P3 kháng cáo xin giảm nhẹ.

Ngoài ra trong vụ án còn có bị cáo Đinh Quốc T13, nhưng không có kháng cáo.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Vào lúc 14 giờ 30 phút ngày 12/12/2020, anh Nguyễn Tiên P4 sinh năm 1974, hộ khẩu thường trú: Ấp E, xã S, huyện T, tỉnh Đ được cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đ tiếp nhận theo Quyết định số 342/QĐ-UBND ngày 12/12/2020 của Chủ tịch UBND xã S, huyện T, tỉnh Đ và được cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đ bố trí ở phòng số 13 thuộc khu vực Phòng khám điều trị cai nghiện phục hồi sức khỏe cùng với 07 bị cáo, gồm: Nguyễn Quốc P, Nguyễn Văn P1, Lê Hoàng S, Hoàng Ngọc L1, Trần Thanh P3, Trương Hoàng T4 và Lê Văn G.

Do đang trong giai đoạn cắt cơn, giải độc nên anh P4 thường xuyên la hét, gây ồn ào, đi vệ sinh tại nơi ăn ngủ gây hôi thối trong phòng. Nguyễn Quốc P và các học viên trong phòng đã nhắc nhở anh P4, nhưng không được nên P cùng 06 bị cáo trong phòng số 13 và 06 bị cáo khác ngoài phòng số 13 bao gồm: Nguyễn Thanh Đ, Lê Tứ P2, Lê Văn H1, Đinh Quốc TI3, Bùi Trần Tường L4 và Nguyễn Trường C đã dùng tay, chân và cây chổi liên tục đánh anh P4 từ lúc 14 giờ 53 phút ngày 12/12/2020 đến 17 giờ 48 phút ngày 14/12/2020, cụ thể như sau:

- Vào ngày 12/12/2020: Nguyễn Quốc P dùng tay tát, đấm 43 cái vào mặt và chân; dùng chân đá, đạp 11 cái vào đùi, ngực, lưng và mông anh P4. Nguyễn Văn P1 dùng tay đánh, tát 23 cái vào mặt và đầu; dùng chân đá, đạp 13 cái vào ngực, lưng, đùi, mông, chân và vai anh P4.

- Vào ngày 13/12/2020: Nguyễn Quốc P dùng tay tát, đấm 22 cái vào mặt, vai và gáy; dùng chân đá, đạp 11 cái vào đầu, mặt, đùi, chân và dùng chổi đánh 09 cái vào mông anh P4. Nguyễn Văn P1 dùng chân đá, đạp 04 cái vào mông và chân anh P4. Bùi Trần Tường L4 dùng chân đá 04 cái vào ngực, cổ, vai và lưng anh P4. Nguyễn Thanh Đ dùng tay tát, đấm 04 cái vào mặt anh P4. Lê Văn HI dùng tay đấm, tát 03 cái vào đầu và mặt; dùng chân đá, đạp 06 cái vào vai và đùi anh P4. Nguyên Trường c dùng chân đạp 03 cái vào mặt, 01 cái vào lưng và dùng đầu gối hất 01 cái vào mặt anh P4. Còn Lê Hoàng S, Trần Thanh P3, Trương Hoàng T4 mỗi người giữ tay, chân anh P4 để P dùng chổi đánh 09 cái vào mông anh P4.

- Vào ngày 14/12/2020: Nguyễn Quốc P dùng tay tát, đấm, gõ 98 cái vào đầu, mặt, cổ, vai, đùi và chân; dùng chân đá, đạp 45 cái vào đùi, chân, hông và mông anh P4. Nguyễn Văn P1 dùng tay tát, đấm 03 cái vào đầu; dùng chân NH đạp 04 cái vào đùi và dùng dép đánh 03 cái vào đầu anh P4. Lê Hoàng S dùng tay và khuỷu tay tát, đấm 08 cái vào mặt, vai, lưng và đùi anh P4; dùng chân đạp 12 cái vào đùi và hông anh P4. Đinh Quốc T13 dùng tay đánh 25 cái vào đầu và mặt; dùng chân đá, đạp 09 cái vào đùi, chân và tay anh P4. Hoàng Ngọc L1 dùng chân đá, đạp 08 cái vào đùi và chân; dùng tay tát 01 cái vào mặt anh P4. Trương Hoàng T4 dùng tay tát 04 cái vào mặt anh P4. Lê Văn G dùng tay tát 02 cái vào đầu và mặt; dùng chân đá 01 cái vào đùi anh P4. Lê Tứ P2 dùng tay đấm 02 cái vào đầu anh P4.

Thời gian các bị cáo đánh anh P4 trong thời gian dài, không cho anh P4 nghỉ ngơi. Khi anh P4 đã trong tình trạng bị thương nặng, nguy hiểm đến tính mạng, P và các bị cáo vẫn tiếp tục đánh đập. Đến 17 giờ 48 phút cùng ngày thì anh P4 bất tỉnh và được đưa đi cấp cứu tại Trung tâm y tế huyện X, nhưng do thương tích quá nặng nên anh P4 đã tử vong.

Biên bản trích xuất dữ liệu camera tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đ từ ngày 12/12/2020 đến ngày 14/12/2020. Tại biên bản khám nghiệm hiện trường lúc 06 giờ ngày 15/12/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện X, tỉnh Đ xác định: Hiện trường nơi xảy ra vụ án tại phòng số 13 thuộc khu vực Phòng khám điều trị cai nghiện phục hồi sức khỏe của Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đ, địa chỉ: Ấp C, xã S, huyện X, tỉnh Đ.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 2923/KLGD-PC09 ngày 31/01/2021 của Phòng K Công an tỉnh Đ xác định thương tích và nguyên nhân tử vong của anh Nguyễn Tiên P4 như sau:

- Dấu hiệu chính: Xây xát, bầm tím da trán hai bên, đuôi mắt và mép phải và đầu cằm bên trái; sưng u, bầm tím da đầu vùng đỉnh sau. Bầm tím da cổ phải, giữa xương ức và vùng xương đòn- sườn lưng trái; bầm tím da chân phải và tay hai bên. Tụ máu dưới da trán hai bên và thái dương đỉnh trái, tụ máu dưới màng cứng, xuất huyết dưới nhện hai bán cầu đại não và tiểu não; màng não mềm căng bóng, cuộn não mờ. Tụ máu xương ức và mặt trước bao màng tim, phổi xung huyết, cắt qua có nhiều máu chảy ra; tim xung huyết, trong buồng tim có nhiều máu loãng lẫn máu cục.

- Nguyên nhân tử vong: Chấn thương sọ não, tụ máu dưới màng cứng, xuất - huyết dưới nhện hai bán cầu đại não và tiểu não, phù não.

Vật chứng vụ án thu giữ được:

63 đoạn video từ camera trong phòng số 13 nơi xảy ra vụ án (được lưu trữ trong 01 ổ cứng). Qua trích xuất dữ liệu camera, xác định rõ 13 bị cáo nêu trên đã có hành vi dùng tay, chân, cây chổi đánh anh Nguyễn Tiên P4 gây thương tích từ ngày 12/12/2020 đến ngày 14/12/2020, dẫn đến việc anh P4 bị chết do đa chấn thương.

01 cây chổi kích thước 100cm x 5cm, là hung khí các bị cáo sử dụng để đánh anh Nguyễn Tiên P4. Đối với 01 cây gậy tre kích thước 95cm x 2cm, 01 ca nhựa màu đỏ là những vật dụng trong phòng số 13, không liên quan đến vụ án. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đ tách ra để xử lý sau.

01 ổ cứng hiệu SEAGATE, số SN: ZCT20P8F, PN: 28D186-300 (đầu thu camera).

Tại Kết luận giám định số 2567/KL-KTHS ngày 12/6/2023 của P6 (Bộ C2) tại Thành phố H kết luận: Không tìm thấy dữ liệu video, hình ảnh trong đầu thu camera trên.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 154/2023/HS-ST ngày 26-9-2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đ, tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quốc P, Nguyễn Văn Pl, Lê Hoàng S, Hoàng Ngọc L1, Trần Thanh P3, Trương Hoàng T4, Lê Văn G, Nguyễn Thanh Đ, Lê Văn H1, Đinh Quốc T13, Bùi Trần Tường L4, Lê Tứ P2 và Nguyễn Trường C phạm tội “Giết người”.

2. Điều luật áp dụng và quyết định hình phạt:

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc P: tù Chung thân. Thời hạn tù tính từ ngày 29/6/2021.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Bùi Trần Tường L4: 14 (mười bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/11/2022.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Hoàng Ngọc L1: 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/6/2021.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Lê Văn H1: 13 (mười ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/11/2022.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Văn P1: 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/6/2021.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Lê Hoàng S: 19 (mười chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/6/2021.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Trương Hoàng T4: 17 (mười bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/6/2021.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Lê Văn G: 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/6/2021.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh Đ: 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/11/2022.

Áp dụng điểm n, p khoản 1 Điều 123, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Trường C: 18 (mười tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/12/2022.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Lê Tứ P2: 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/11/2022.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Trần Thanh P3: 10 (mười) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/6/2021.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định hình phạt đối với bị cáo Đinh Quốc T13, bồi thường dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

- Ngày 02/10/2023, bị cáo Nguyễn Trường C kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

- Ngày 02/10/2023, bị cáo Lê Văn G kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

- Ngày 02/10/2023, bị cáo Lê Tứ P2 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

- Ngày 02/10/2023, bị cáo Nguyễn Thanh Đ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

- Ngày 02/10/2023, bị cáo Lê Văn H1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

- Ngày 04/10/2023, bị cáo Trần Thanh P3 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

- Ngày 04/10/2023, bị cáo Trương Hoàng T4 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

- Ngày 05/10/2023, bị cáo Bùi Trần Tường L4 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

- Ngày 09/10/2023, bị cáo Hoàng Ngọc L1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

- Ngày 09/10/2023, bị cáo Lê Hoàng S kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

- Ngày 09/10/2023, bị cáo Nguyễn Quốc P kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

- Ngày 09/10/2023, bị cáo Nguyễn Văn P1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Luật sư Nguyễn Quang T9 Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Quốc P, Hoàng Ngọc L1 và Lê Văn G cho rằng: Cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Đ không truy tố xét xử đối với một số cán bộ của Cơ sở cai nghiện là bỏ lọt tội phạm, lời khai của các bị cáo về thời gian đánh bị hại có khác nhau, các bị cáo không có mục đích giết người nên chỉ phạm vào tội Vô ý làm chết người. Vì vậy luật sư T9 đề nghị Hội đồng xét xử hủy án để điều tra, xét xử lại.

Luật sư Nguyễn Thị Quế A cùng bào chữa cho bị cáo Nguyễn Quốc P cho rằng: Hành vi của bị cáo và các đồng phạm đã cấu thành tội Giết người, nhưng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tình tiết giảm nhẹ mới: Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã tác động với gia đình bồi thường thêm cho gia đình bị hại thêm số tiền 18.500.000đ (Bồi thường xong toàn bộ số tiền 38.500.000 đ bản án sơ thẩm đã tuyên). Tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, gia đình bị cáo là người có công với cách mạng nên giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Luật sư Nguyễn Thị Quế A bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn P1 cho rằng: Tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, đây là tình tiết giảm nhẹ mới nên đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Luật sư Nguyễn Trọng N2 bào chữa cho bị cáo Lê Hoàng S cho rằng: Tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, đây là tình tiết giảm nhẹ mới nên đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Luật sư Nguyễn Thị Quế A bào chữa cho bị cáo Nguyễn Trường C cho rằng: Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã tác động với gia đình bồi thường thêm cho gia đình bị hại thêm số tiền 18.500.000đ (Bồi thường xong toàn bộ số tiền 38.500.000 đ bản án sơ thẩm đã tuyên). Tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, đây là tình tiết giảm nhẹ mới nên đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Luật sư Nguyễn Trọng N2 bào chữa cho bị cáo Trương Hoàng T4 cho rằng: Tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, đây là tình tiết giảm nhẹ mới nên đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Luật sư Nguyễn Trọng N2 bào chữa cho bị cáo Hoàng Ngọc L1 cho rằng: Bị cáo bị xét xử về tội Giết người là có căn cứ. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, đây là tình tiết giảm nhẹ mới nên đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Luật sư Nguyễn Trọng N2 bào chữa cho bị cáo Lê Văn G cho rằng: Bị cáo bị xét xử về tội Giết người là có căn cứ. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, đây là tình tiết giảm nhẹ mới nên đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Luật sư Trần Quý T10 bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thanh Đ cho rằng: Đây là vụ án giết người có đồng phạm giản đơn, bị cáo Đ chỉ tát bị hại 01 cái, người bị hại cũng tự ngã, bị cáo phạm tội do bị hạn chế về nhận thức nên đề nghị áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ theo điểm 1 khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Đồng thời, tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, đây là những tình tiết giảm nhẹ mới nên đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Luật sư Trần Quý T10 và luật sư Nguyễn Như T11 bào chữa cho bị cáo Bùi Trần Tường L4 cho rằng: Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã tác động với gia đình bồi thường thêm cho gia đình bị hại số tiền 28.500.000đ (Bồi thường xong toàn bộ số tiền 38.500.000 đ bản án sơ thẩm đã tuyên). Tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, đây là tình tiết giảm nhẹ mới nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự giảm nhẹ cho bị cáo mức án thấp hơn trong khung hình phạt liền kề.

Luật sư Trần Quý T10 bào chữa cho bị cáo Lê Văn H1 cho rằng: Bị cáo bị xét xử về tội Giết người là có căn cứ. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, đây là tình tiết giảm nhẹ mới nên đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Luật sư Nguyễn Văn S3 bào chữa cho bị cáo Lê Tứ P2 cho rằng: Lỗi một phần của người bị hại, bị cáo chỉ đánh bị hại 02 cái. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã tác động với gia đình bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 40.000.000đ (Bản án sơ thẩm chỉ buộc bị cáo phải bồi thường số tiền 38.500.000đ). Tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, đây là tình tiết giảm nhẹ mới nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Đầu 54 của Bộ luật Hình sự giảm nhẹ cho bị cáo mức án thấp hơn trong khung hình phạt liền kề.

Luật sư Trần Trọng T12 bào chữa cho bị cáo Trần Thanh P3 cho rằng: Bị cáo bị xét xử về tội Giết người là có căn cứ. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, đây là tình tiết giảm nhẹ mới nên đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố H:

Cơ quan tiến hành tố tụng ở giai đoạn sơ thẩm thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó luật sư Nguyễn Quang T9 đề nghị hủy Bản án sơ thẩm để điều tra lại là không có căn cứ.

Các bị cáo phạm tội có tính chất côn đồ, giả man và có nhân thân rất xấu; kháng cáo tuy có tình tiết giảm nhẹ mới, nhưng mức hình phạt cấp sơ thẩm đã tuyên là phù hợp, không nặng nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo, giữ nguyên hình phạt của bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của các luật sư bào chữa và của kiểm sát viên Hội đồng xét xử nhận định như sau:

* Về thủ tục tố tụng:

[1]. Đơn kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Quốc P, Nguyễn Văn P1, Lê Hoàng S, Nguyễn Trường C, Trương Hoàng T4, Hoàng Ngọc L1, Lê Văn G, Nguyễn Thanh Đ, Bùi Trần Tường L4, Lê Văn H1, Lê Tứ P2 và Trần Thanh P3 là trong hạn luật định và hợp lệ nên được xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

[2]. Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử ở cấp sơ thẩm, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng ở cấp sơ thẩm phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

[3]. Việc Cơ quan điều tra tách hành vi vi phạm của cán bộ Cơ sở cai nghiện ma túy ra để xử lý sau là phù hợp quy định của pháp luật.

* Về nội dung:

[4]. Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo Nguyễn Quốc P, Nguyễn Văn P1, Lê Hoàng S, Trương Hoàng T4. Hoàng Ngọc L1. Lê Văn G, Nguyễn Thanh Đ. Bùi Trần Tường L4, Lê Văn H1, Lê Tứ P2 và Trần Thanh P3 đều khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, như sau:

Do bực tức về việc bị hại Nguyễn Tiến P5 thường xuyên la hét, sinh hoạt mất vệ sinh trong phòng nên trong khoảng thời gian từ 14 giờ 53 phút ngày 12/12/2020 đến 17 giờ 48 phút ngày 14/12/2020, các bị cáo đã nhiều lần dùng tay, chân, cây chổi, tát, đánh, đấm, đạp vào người, đầu, mặt và toàn bộ cơ thể của anh P5 liên tục làm anh P5 bị tử vong.

[6]. Xét lời khai nhận tội của các bị cáo là phù hợp với nhau, phù hợp với kết quả giám định thương tật, giám định vật chứng, biên bản khám nghiệm và thực nghiệm hiện trường, biên bản khám xét, biên bản trích xuất camera và các chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ trong vụ án. Có căn cứ để kết luận: Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố hành vi nêu trên của các bị cáo Nguyễn Quốc P, Nguyên Văn P1, Lê Hoàng S, Hoàng Ngọc L1, Trần Thanh P3, Trương Hoàng T4, Lê Văn G, Nguyễn Thanh Đ, Lê Tứ P2, Lê Văn H1, Bùi Trần Tường L4 và Nguyễn Trường C phạm tội “Giết người” theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự là có căn cứ đúng pháp luật, không làm oan sai cho các bị cáo.

[7]. Các bị cáo Nguyễn Quốc P, Nguyễn Văn P1, Lê Hoàng S, Hoàng Ngọc L1, Trần Thanh P3, Trương Hoàng T4,Lê Văn G,Nguyễn Thanh Đ. Lê Tứ P2, Lê Văn H1, Đinh Quốc T13, Bùi Trần Tường L4 phạm tội có 01 tình tiết tăng nặng định khung “Có tính chất côn đồ” được quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Riêng bị cáo Nguyễn Trường C có 02 tình tiết tăng nặng định khung “Có tính chất côn đồ” và “Tái phạm nguy hiểm” được quy định tại điểm n, p khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[8]. Hành vi của các bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể và quyền được sống của người bị hại. Các bị cáo là những người có tiền án, tiền sự đang trong môi trường cai nghiện ma túy bắt buộc. Nhưng chỉ vì việc người bị hại không giữ trật tự và đi vệ sinh không đúng nội quy của Cơ sở cai nghiện, các bị cáo đã cùng nhau đánh nhằm tước đoạt tính mạng của người bị hại với hành vi mang tính chất hành hạ, gây đau đớn về thể xác cho người bị hại trong một thời gian dài. Hành vi của các bị cáo thể hiện các bị cáo rất côn đồ và coi thường pháp luật. Do đó, cần phải xử phạt các bị cáo với mức hình phạt nghiêm minh, tương xứng với tính chất của hành vi và hậu quả do các bị cáo gây ra.

[9]. Đây là vụ án đồng phạm có tính giản đơn, nhưng cũng cần phân tích đánh giá vai trò của từng bị cáo để cá thể hóa hình phạt, cụ thể như sau:

- Bị cáo Nguyễn Quốc P là người giữ vai trò chính, là người khơi mào đánh người bị hại đầu tiên và là người đánh nhiều nhất (đánh 228 cái): Ngày 12/12/2020, p dùng tay tát, đấm 43 cái vào mặt và chân, dùng chân đá, đạp 11 cái vào đùi, ngực, lưng và mông anh P5; Ngày 13/12/2020, P dùng tay tát, đấm 22 cái vào mặt, vai và gáy; dùng chân đá, đạp 11 cái vào đầu, mặt, đùi, chân và dùng chổi đánh 09 cái vào mông anh P5; Ngày 14/12/2020, P dùng tay tát, đấm, gõ 98 cái vào đầu, mặt, cổ, vai, đùi và chân; dùng chân đá, đạp 45 cái vào đùi, chân, hông và mông anh P5. Bị cáo có 01 tiền sự, có tình tiết tăng nặng phạm tội 02 lần trở lên. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo được hưởng: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tác động gia đình bồi thường số tiền 20.000.00đ cho gia đình bị hại; có hoàn cảnh khó khăn. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã tác động với gia đình bồi thường thêm cho gia đình bị hại số tiền 18.500.000đ (Bồi thường xong toàn bộ số tiền 38.500.000 đ bản án sơ thẩm đã tuyên), được đại diện của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Xét tính chất của hành vi, vai trò, nhân thân và hậu quả bị cáo gây ra cho xã hội là đặc biệt nghiêm trọng, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo tù chung thân là tương xứng, không nặng, nên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo không được chấp nhận.

- Bị cáo Nguyễn Văn P1 giữ vai trò là người thực hành tham gia đánh bị hại nhiều thứ 2 (đánh 50 cái): Ngày 12/12/2020, P1 dùng tay đánh, tát 23 cái vào mặt và đầu, dùng chân đá, đạp 13 cái vào ngực, lưng, đùi, mông, chân và vai anh P5; Ngày 13/12/2020, P1 dùng chân đá, đạp 04 cái vào mông và chân anh P5; Ngày 14/12/2020, P1 dùng tay tát, đấm 03 cái vào đầu, dùng chân đạp 04 cái vào đùi và dùng dép đánh 03 cái vào đầu anh P5. Bị cáo có 01 tiền sự, có tình tiết tăng nặng phạm tội 02 lần trở lên. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Mặc dù, sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo đã tác động với gia đình bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 38.500.000đ như bản án sơ thẩm tuyên, và tại phiên tòa phúc thẩm được người đại diện của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, nhưng xét tính chất của hành vi, vai trò, nhân thân và hậu quả bị cáo gây ra cho xã hội cũng đặc biệt nghiêm trọng. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 20 năm tù là không nặng, nên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo không được chấp nhận.

- Bị cáo Lê Hoàng S giữ vai trò là người thực hành tham gia đánh bị hại nhiều thứ 4 (bị cáo S đánh 20 cái, bị cáo Đinh Quốc T13 đánh 34 cái, nhiều thứ 03 trong vụ án nhưng T13 không kháng cáo): Ngày 13/12/2020, bị cáo S tham gia giữ tay, chân anh P5 để bị cáo P dùng chổi đánh 09 cái vào mông anh P5; Ngày 14/12/2020, S dùng tay và khuỷu tay tát, đấm 08 cái vào mặt, vai, lưng và đùi anh P5; dùng chân đạp 12 cái vào đùi và hông anh P5. Bị cáo có 01 tiền sự; Nhân thân: đã từng bị tòa án kết án về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (đã được xóa án tích), có tình tiết tăng nặng phạm tội 02 lần trở lên. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có hoàn cảnh khó khăn. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo được người đại diện của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, đây là tình tiết giảm nhẹ mới. Tuy nhiên xét tính chất, mức độ, hành vi của bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 19 năm tù là không nặng, nên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo không được chấp nhận.

- Bị cáo Hoàng Ngọc L1 là người giữ vai trò thực hành tham gia đánh bị hại nhiều thứ 5 (đánh 09 cái): Ngày 14/12/2020, bị cáo LI dùng chân đá, đạp 08 cái vào đùi và chân; dùng tay tát 01 cái vào mặt anh P5. Còn trước đó ngày 12/12/2020 và ngày 13/12/2020 bị cáo không đánh người bị hại, nhưng Tòa án sơ thẩm áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội phạm tội 02 lần trở đối với bị cáo là có thiếu sót. Bị cáo có 01 tiền sự và có các tình tiết giảm nhẹ: tự nguyện bồi thường 71.500.000.000đ; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có hoàn cảnh khó khăn; tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo được người đại diện của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 15 năm tù là phù hợp, không nặng. Do đó kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo không được chấp nhận.

- Bị cáo Lê Văn H1 cũng là người giữ vai trò thực hành tham gia đánh bị hại nhiều thứ 5 (đánh 09 cái): Ngày 13/12/2020, bị cáo H1 dùng tay đấm, tát 03 cái vào đầu và mặt; dùng chân đá, đạp 06 cái vào vai và đùi anh P5. Còn ngày 12/12/2020 và ngày 14/12/2020 bị cáo không đánh người bị hại, nhưng Tòa án sơ thẩm cũng áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội 02 lần trở lên đối với bị cáo là có thiếu sót. Tuy nhiên, bị cáo có 01 tiền sự, các tình tiết giảm nhẹ: tự nguyện bồi thường bồi thường 38.500.000đ; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; hoàn cảnh khó khăn. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo được người đại diện của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 14 năm tù là không nặng. Do đó kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo không được chấp nhận.

- Bị cáo Nguyễn Trường C là người giừ vai trò thực hành, tham gia đánh bị hại nhiều thứ 6 (đánh 05 cái): Ngày 13/12/2020, bị cáo c dùng chân đạp 03 cái vào mặt, 01 cái vào lưng và dùng đầu gối hất 01 cái vào mặt anh P5. Bị cáo có 01 tiền sự, có 02 tiền án: về tội Lạm dụng tín nhiệm và tội Trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích, thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã áp dụng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ: tự nguyện bồi thường 20.000.00đ; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có hoàn cảnh khó khăn, ra đầu thú. Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội nhưng tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Tuy nhiên, tình tiết “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã áp dụng cho bị cáo hưởng theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo được người đại diện của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Xét tính chất của hành vi, vai trò, nhân thân của bị cáo, bị cáo phạm tội có 02 tình tiết tăng nặng định khung. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 18 năm tù là không nặng, nên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo không được chấp nhận.

- Bị cáo Trương Hoàng T4 cũng là người thực hành tham gia đánh bị hại nhiều thứ 7 (đánh 04 cái): Ngày 13/12/2020, bị cáo T4 cũng là người giữ tay, chân anh P5 để cho bị cáo P dùng chổi đánh 09 cái vào mông anh P5; Ngày 14/12/2020, T4 dùng tay tát 04 cái vào mặt anh P5. Bị cáo có 01 tiền sự, có tình tiết tăng nặng phạm tội 02 lần trở lên. Tòa án sơ thẩm đã cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có hoàn cảnh khó khăn. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo được người đại diện của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt.

Xét bị cáo T4 phạm tội 02 lần và tham gia đánh bị hại 04 cái, bị cáo Đ cũng đánh bị hại 4 cái, phạm tội 01 lần nhưng có nhân thân 01 lần bị kết án và 04 lần bị xử lý hành chính (đã được xóa tiền án tiền sự), nhưng Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Đ 15 năm tù, trong khi đó xử phạt bị cáo T4 17 năm tù là có phần nghiêm khắc đối với bị cáo T4. Do đó cần chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.

- Bị cáo Nguyễn Thanh Đ, bị cáo chỉ thừa nhận dùng tay tát bị hại P5 01 cái, nhưng Biên bản trích xuất dữ liệu camera tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh Đ từ ngày 12/12/2020 đến ngày 14/12/2020 và 63 đoạn video được trích xuất từ camera thể hiện vào ngày 13/12/2020, bị cáo Đ có dùng tay tát và đấm 04 cái vào mặt anh P5. Như vậy, bị cáo là người giữ vai trò thực hành tham gia đánh bị hại nhiều thứ 8 (đánh 04 cái). Ngày 12/12/2020 và ngày 14/12/2020 bị cáo không đánh người bị hại, nhưng Tòa án sơ thẩm cũng áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội 02 lần trở lên đối với bị cáo là có thiếu sót. Xét, bị cáo có 01 tiền sự; Nhân thân: 05 lần bị xử lý hành chính về hành vi hủy hoại, làm hư hỏng tài sản của công dân, cố ý gây thương tích, sử dụng trái phép chất ma túy (đã được xóa). Tòa án sơ thẩm đã cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có hoàn cảnh khó khăn. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo được người đại diện của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 15 năm tù là không nặng nên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo không được chấp nhận.

- Bị cáo Bùi Trần Tường L4 cũng là người giữ vai trò thực hành tham gia đánh bị hại nhiều thứ 8 (đánh 04 cái): Ngày 13/12/2020, bị cáo dùng chân đá 04 cái vào ngực, vai và lưng người bị hại. Còn ngày 12/12/2020 và ngày 14/12/2020 bị cáo không đánh người bị hại, nhưng Tòa án sơ thẩm cũng áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội 02 lần trở lên đối với bị cáo là có thiếu sót. Tòa án sơ thẩm đã cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ: tự nguyện bồi thường 10.000.000đ; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; hoàn cảnh khó khăn. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã bồi thường thêm cho gia đình bị hại 28.500.000đ. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo được người đại diện của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, đây là tình tiết giảm nhẹ mới. Tuy nhiên, bị cáo có nhân thân xấu có 01 tiền sự nên Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 14 năm tù là không nặng. Do đó kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo không được chấp nhận.

- Bị cáo Lê Văn G cũng là người thực hành tham gia đánh bị hại nhiều thứ 9 (đánh 03 cái): Ngày 14/12/2020, bị cáo G dùng tay tát 02 cái vào đầu và mặt; dùng chân đá 01 cái vào đùi anh P5. Còn ngày 12/12/2020 và ngày 13/12/2020 bị cáo không đánh người bị hại, nhưng Tòa án sơ thẩm cũng áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội 02 lần trở lên đối với bị cáo là có thiếu sót. Tuy nhiên, bị cáo có 01 tiền sự, Tòa án sơ thẩm đã cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có hoàn cảnh khó khăn. Sau khi xét xử, bị cáo tác động với gia đình bồi thường cho gia đình bị số tiền 38.500.000đ và tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo được người đại diện của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Đây là tình tiết giảm nhẹ mới nhưng Tòa án cấp sơ xử phạt bị cáo 15 năm tù là không nặng, do đó kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo không được chấp nhận.

- Bị cáo Lê Tứ P2 là người giữ vai trò thực hành tham gia đánh bị hại nhiều thứ 10 (đánh 02 cái): Ngày 14/12/2020, bị cáo dùng tay đấm 02 cái vào đầu người bị hại. Bị cáo có 01 tiền sự; Nhân thân: có 02 lần bị kết án về tội Trộm cắp tài sản (đã được xóa án tích). Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; hoàn cảnh khó khăn. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã bồi thường thêm cho gia đình bị hại 40.000.000đ và tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo được người đại diện của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 12 năm tù là mức án khởi điểm của khung hình phạt là không nặng, do đó kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo không được chấp nhận.

- Bị cáo Trần Thanh P3 chỉ là người giữ vai giúp sức. Ngày 13/12/2020, bị cáo tham gia giữ chân tay người bị hại để bị cáo P lấy chổi đánh vào mông người bị hại. Xét, bị cáo có 01 tiền sự nhưng chỉ là đồng phạm giúp sức thứ yếu trong vụ án và bị cáo có tình tiết giảm nhẹ: đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; hoàn cảnh khó khăn. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo được người đại diện của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo chỉ có 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự nhưng Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 10 năm tù là mức hình phạt dưới khung hình phạt là có thiếu sót, đã rất khoan hồng đối với bị cáo, không nặng, do đó kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo không được chấp nhận.

[10]. Luật sư Nguyễn Quang T9 - người bào chữa cho bị cáo Nguyên Quốc P, Hoàng Ngọc L1 và Lê Văn G cho rằng, Cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Đ không truy tố xét xử đối với một số cán bộ của Cơ sở cai nghiện là bỏ lọt tội phạm, lời khai của các bị cáo về thời gian đánh bị hại có khác nhau, các bị cáo không có mục đích giết người nên chỉ phạm vào tội Vô ý làm chết người nên đề nghị hủy án để điều tra, xét xử lại là không có căn cứ chấp nhận. Bởi lẽ, đối với một số cán bộ của Cơ sở cai nghiện Cơ quan điều tra đã tách ra và đang tiếp tục điều tra để xử lý theo quy định của pháp luật. Về thời gian gây án đã được camera ghi hình thể hiện thời gian cụ thể. Các bị cáo không bàn bạc giết người bị hại nhưng các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý gián tiếp nên hậu quả đến đâu các bị cáo phải chịu đến đó.

[11]. Các luật sư Nguyễn Thị Quế A bào chữa cho bị cáo Nguyễn Quốc P, Nguyễn Trường C và bị cáo Nguyễn Văn P1; Luật sư Nguyễn Trọng N2 bào chữa cho các bị cáo Lê Hoàng S và Hoàng Ngọc L1; Luật sư Nguyễn Trọng N2 bào chữa cho bị cáo Lê Văn G; Luật sư Trần Quý T10 bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thanh Đ; Luật sư Trần Quý T10 và luật sư Nguyễn Như T11 bào chữa cho bị cáo Bùi Trần Tường L4; Luật sư Trần Quý T10 bào chữa cho bị cáo Lê Văn H1; Luật sư Nguyễn Văn S3 bào chữa cho bị cáo Lê Tứ P2; Luật sư Trần Trọng T12 bào chữa cho bị cáo Trần Thanh P3 đề nghị Hội đồng áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ “các bị cáo được người đại diện của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt” theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và xem xét thêm tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo đã tác động với gia đình bồi thường thêm cho gia đình bị hại, là có căn cứ. Tuy nhiên, mức hình phạt cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với các bị cáo là không nặng nên các luật sư đề nghị Hội đồng xét xử giảm mức hình phạt cho các bị cáo không được chấp nhận. Riêng Luật sư Nguyễn Trọng N2 bào chữa cho bị cáo Trương Hoàng T4 đề nghị giảm một phần hình phạt cho bị cáo T4 là có căn cứ chấp nhận.

[12]. Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố H đề nghị Hội đồng xét xử không nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Nguyễn Quốc P, Nguyễn Văn P1, Nguyễn Trường C, Lê Hoàng S, Hoàng Ngọc L1, Nguyễn Thanh Đ, Bùi Trần Tường L4, Lê Văn H1, Lê Văn G, Lê Tứ P2, Trần Thanh P3, giữ nguyên hình phạt của bản án sơ thẩm là có căn cứ chấp nhận. Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát đề nghị không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ của bị cáo Trương Hoàng T4 là không có căn cứ chấp nhận.

[13]. Về phần trách nhiệm dân sự:

Bản án sơ thẩm đã tuyên:

Buộc bị cáo Nguyễn Quốc P phải bồi thường tiếp cho gia đình bị hại số tiền 18.500.000đ (mười tám triệu năm trăm nghìn đồng). Sau khi xét xử sơ thẩm gia đình bị cáo P đã bồi thường cho người đại diện của bị hại là anh Nguyễn Trần Minh Q xong số tiền nêu trên;

Buộc bị cáo Nguyễn Trường C phải bồi thường tiếp cho gia đình bị hại số tiền 18.500.000đ (mười tám triệu, năm trăm nghìn đồng). Sau khi xét xử sơ thẩm gia đình bị cáo C đã bồi thường cho người đại diện của bị hại là anh Nguyễn Trần Minh Q xong số tiền nêu trên;

Buộc bị cáo Nguyễn Văn P1 phải bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 38.500.000đ (ba mươi tám triệu, năm trăm nghìn đồng). Sau khi xét xử sơ thẩm gia đình bị cáo P1 đã bồi thường cho người đại diện của bị hại là anh Nguyễn Trần Minh Q xong số tiền nêu trên;

Buộc bị cáo Lê Văn G phải bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 38.500.000đ (ba mươi tám triệu, năm trăm nghìn đồng). Sau khi xét xử sơ thẩm gia đình bị cáo G đã bồi thường cho người đại diện của bị hại là anh Nguyễn Trần Minh Q xong số tiền nêu trên;

Buộc bị cáo Bùi Trần Tường L4 phải bồi thường tiếp cho gia đình bị hại số tiền 28.500.000đ (hai mươi tám triệu, năm trăm nghìn đồng). Sau khi xét xử sơ thẩm gia đình bị cáo L4 đã bồi thường cho người đại diện của bị hại là anh Nguyễn Trần Minh Q xong số tiền nêu trên;

Buộc bị cáo Lê Tứ P2 phải bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 38.500.000đ (ba mươi tám triệu, năm trăm nghìn đồng). Sau khi xét xử sơ thẩm gia đình bị cáo P2 đã bồi thường xong cho người đại diện của bị hại là anh Nguyễn Trần Minh Q số tiền 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng) (bồi thường nhiều hơn bản án sơ thẩm tuyên buộc).

Nên cần sửa lại phần trách nhiệm bồi thường dân sự của bản án sơ thẩm đối với những nội dung nêu trên.

[14]. Án phí hình sự phúc thẩm: các bị cáo Nguyễn Quốc P, Nguyễn Văn P1, Nguyễn Trường C, Lê Hoàng S, Hoàng Ngọc L1, Nguyễn Thanh Đ, Bùi Trần Tường L4, Lê Văn H1, Lê Văn G, Lê Tứ P2, Trần Thanh P3 có kháng cáo không được chấp nhận phải chịu án phí. Riêng bị cáo T4 kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí.

[15]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Nguyễn Quốc P, Nguyễn Văn P1, Lê Hoàng S, Nguyễn Trường C, Hoàng Ngọc L1, Lê Văn G, Nguyễn Thanh Đ, Bùi Trần Tường L4, Lê Văn H1, Lê Tứ P2 và Trần Thanh P3.

Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trương Hoàng T4.

Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 154/2023/HS-ST ngày 26-9-2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đ, tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quốc P, Nguyễn Văn P1, Lê Hoàng S, Hoàng Ngọc L1, Trần Thanh P3, Trương Hoàng T4, Lê Văn G, Nguyễn Thanh Đ, Lê Văn H1, Bùi Trần Tường L4, Lê Tứ P2 và Nguyễn Trường C phạm tội “Giết người”.

2. Điều luật áp dụng và quyết định hình phạt:

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc P: tù Chung thân. Thời hạn tù tính từ ngày 29/6/2021.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Văn P1: 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/6/2021.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 5 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Lê Hoàng S: 19 (mười chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/6/2021.

Áp dụng điểm n, p khoản 1 Điều 123; Điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Trường C: 18 (mười tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/12/2022.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Trương Hoàng T4: 16 (mười sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/6/2021.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Hoàng Ngọc L1: 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/6/2021.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Lê Văn G: 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/6/2021.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh Đ: 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/11/2022.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Bùi Trần Tường L4: 14 (mười bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/11/2022.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Lê Văn H1: 13 (mười ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/11/2022.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Lê Tứ P2: 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/11/2022.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Trần Thanh P3: 10 (mười) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/6/2021.

3. Bồi thường dân sự: Áp dụng các Điều 584, 585, 587, 591 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Nguyễn Quốc P đã bồi thường xong cho gia đình bị hại Nguyễn Tiên P4 số tiền 38.500.000đ (ba mươi tám triệu năm trăm nghìn đồng) như bản án sơ thẩm đã tuyên.

Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Nguyễn Trường C đã bồi thường xong cho gia đình bị hại Nguyễn Tiên P4 số tiền 38.500.000đ (ba mươi tám triệu năm trăm nghìn đồng) như bản án sơ thẩm đã tuyên.

Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Nguyễn Văn P1 đã bồi thường xong cho gia đình bị hại Nguyễn Tiên P4 số tiền 38.500.000đ (ba mươi tám triệu năm trăm nghìn đồng) như bản án sơ thẩm đã tuyên.

Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Bùi Trần Tường L4 đã bồi thường xong cho gia đình bị hại Nguyễn Tiên P4 số tiền 38.500.000đ (ba mươi tám triệu năm trăm nghìn đồng) như bản án sơ thẩm đã tuyên.

Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Lê Tứ P2 đã bồi thường xong cho gia đình bị hại Nguyễn Tiên P4 số tiền 38.500.000đ (ba mươi tám triệu năm trăm nghìn đồng) như bản án sơ thẩm đã tuyên. Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Lê Tứ P2 đã bồi thường dư cho gia đình bị hại Nguyễn Tiên P4 số tiền 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng).

Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Lê Văn G đã bồi thường xong cho gia đình bị hại Nguyễn Tiên P4 số tiền 38.500.000đ (ba mươi tám triệu năm trăm nghìn đồng) như bản án sơ thẩm đã tuyên.

4. Án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Nguyễn Quốc P, Nguyễn Văn P1, Lê Hoàng S, Hoàng Ngọc L1, Trần Thanh P3, Lê Văn G, Nguyễn Thanh Đ, Lê Văn H1, Bùi Trần Tường L4, Lê Tứ P2 và Nguyễn Trường C mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm. Riêng bị cáo Trương Hoàng T4 không phải chịu án phí.

5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết kháng cáo, kháng nghị.

6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 97/2024/HS-PT về tội giết người

Số hiệu:97/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;