Bản án 97/2020/HS-ST ngày 26/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 97/2020/HS-ST NGÀY 26/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 26 tháng 9 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 102/2020/TLST- HS ngày 11 tháng 9 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 96/2020/QĐXXST- HS ngày 14/9/2020, đối với bị cáo:

Nguyễn Hữu K, sinh ngày 11/9/1995 tại tỉnh Vĩnh Phúc.

Nơi cư trú: Tổ 1, phường P, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 11/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Nguyễn Hữu T, sinh năm 1971 và bà Trần Thị Ngọc C, sinh năm 1976; Vợ, con: Không.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 28/6/2017, bị Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang áp dụng biện pháp xử lý hành chính Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm chữa bệnh, giáo dục, lao động xã hội tỉnh Tuyên Quang, thời hạn 15 tháng, theo Quyết định số 19/2017/QĐ-TA (chấp hành xong ngày 21/10/2018).

Nhân thân: Ngày 03/8/2016, bị Ủy ban nhân dân phường Tân Quang, thành phố Tuyên Quang áp dụng biện pháp giáo dục tại phường, thời hạn 04 tháng 15 ngày, kể từ ngày 03/8/2016, theo Quyết định số 64/QĐ-UBND (chấp hành xong ngày 18/12/2016).

* Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/8/2020 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Tuyên Quang.

Có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 28/7/2020, Nguyễn Hữu K (là người nghiện ma túy) một mình từ nhà đón xe ôtô khách đi về bến xe khách Mỹ Đình, thành phố Hà Nội với mục đích tìm mua ma túy về sử dụng. Sau khi xuống bến Mỹ Đình, K gặp một người đàn ông (không biết tên, tuổi, địa chỉ) và hỏi mua được 02 gói ma túy (dạng đá) được gói ngoài bằng nilon màu trắng, trên mép có viền màu xanh được hàn kín, trong chứa chất tinh thể màu trắng, với số tiền 500.000 đồng. K cất giấu ma túy vào túi quần mặc trên người, đón xe khách về thành phố Tuyên Quang. Về nhà, K lấy một gói ma túy ra sử dụng bằng cách đốt hít vào cơ thể, gói ma túy còn lại Khánh cất vào trong túi quần.

Đến khoảng 22 giờ 30 phút ngày 03/8/2020, K một mình mang theo gói ma túy đi bộ đến khu vục vắng người gần nhà nghỉ V thuộc tổ 19, phường P, mục đích để sử dụng thì bị Tổ công tác Công an thành phố Tuyên Quang đang làm nhiệm vụ phát hiện, K đã thả gói ma túy cầm trên tay xuống đất, sau đó K thừa nhận gói ma túy thả xuống đất là của K, tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 23 giờ ngày 03/8/2020, tiến hành thu giữ, niêm phong 01 gói bằng nilon màu trắng, mép túi có đường viền màu xanh, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng của K.

Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với Nguyễn Hữu K, kết quả (+) dương tính có chất ma túy trong cơ thể.

Tại Kết luận giám định số 604 ngày 06/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Mẫu vật gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng 0,130g (Không phẩy một ba không gam).

Vật chứng thu giữ trong vụ án đã được Cơ quan điều tra niêm phong trong 01 phong bì các mép dán có chữ ký của Nguyễn Hữu K, có 05 hình dấu niêm phong Công an thành phố Tuyên Quang, bên trong có chứa 0,130 gam Methamphetamine là vật chứng của vụ án.

Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 102/CT-VKSTP ngày 10 tháng 9 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Nguyễn Hữu K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Hữu K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu K từ 01 năm 02 tháng đến 01 năm 05 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 04/8/2020. Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; đề nghị xử lý vật chứng, tuyên quyền kháng cáo và buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Hữu K đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục nhận tội, nội dung khai báo của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, không có tình tiết gì mới; bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang; bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình.

Kết thúc phần tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố các Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Hữu K tiếp tục khai nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 23 giờ ngày 03/8/2020 tại khu vực tổ 19, phường P, thành phố T, Nguyễn Hữu K đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,130g (không phẩy một ba không gam) Methamphetamine, mục đích để sử dụng.

Bị cáo Nguyễn Hữu K là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có hành vi cất giữ bất hợp pháp 0,130g (không phẩy một ba không gam) Methamphetamine, mục đích là để sử dụng cho bản thân. Bị cáo có nhân thân xấu: Năm 2016 và 2017 đã được chính quyền địa phương và Toà án áp dụng các biện pháp xử lý hành chính để bị cáo cai nghiện nhưng bị cáo không những không từ bỏ được ma tuý mà lại tiếp tục mua ma tuý và tàng trữ để sử dụng. Hành vi của bị cáo thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý. Do vậy Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định, cần chấp nhận.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, làm ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh phòng, chống tội phạm và bài trừ tệ nạn ma tuý trên địa bàn thành phố Tuyên Quang. Do vậy, cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo; khối lượng ma tuý mà bị cáo tàng trữ cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy mức án mà Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang.

[6] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy ngày 28/7/2020 của bị cáo Nguyễn Hữu K, Công an thành phố Tuyên Quang đã xử phạt vi phạm hành chính tại Quyết định số 83 ngày 24/8/2020, hình thức phạt tiền 750.000đ. Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ và đúng quy định pháp luật.

Đối với người đàn ông theo bị cáo K khai nhận tên là H là người bán ma túy cho K tại khu vực bến xe khách Mỹ Đình, nhưng không xác định được tên tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ để điều tra xử lý.

[7] Về vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ 01 phong bì niêm phong, trên các mép dán có chữ ký của Nguyễn Hữu K, chữ ký của các thành phần tham gia, có 05 hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có 0,08 gam Methamphetamine (số còn lại sau khi lấy mẫu giám định) là vật chứng của vụ án là vật Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hữu K phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu K 01 (Một) 02 (Hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (04//8/2020).

2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) phong bì niêm phong, trên các mép dán có chữ ký của Nguyễn Hữu K, chữ ký của các thành phần tham gia, có 05 hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có 0,08 gam Methamphetamine (số còn lại sau khi lấy mẫu giám định).

Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Tuyên Quang và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang ngày 14/9/2020.

3. Căn cứ khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo Nguyễn Hữu K phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Hữu K được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

128
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 97/2020/HS-ST ngày 26/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:97/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;