TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUY H, TỈNH PHÚ YÊN
BẢN ÁN 97/2017/HSST NGÀY 22/12/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Vào lúc 8 giờ 30 phút ngày 22/12/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tuy H, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 110/2017/HSST ngày 01/12/2017 đối với bị cáo:
Võ Văn T - sinh ngày 25/9/1999; Trú tại: Thôn Phước Khánh, xã H Trị, huyện Phú H, tỉnh Phú Yên; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 6/12; Con ông: Võ Văn Thoan, sinh năm 1972 và bà Phạm Thị Thận, sinh năm 1975; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 11/12/2015 bị Công an xã H Trị, huyện Phú H, tỉnh Phú Yên xử phạt hành chính 100.000đ về hành vi “Xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác”, đã nộp phạt ngày 16/12/2015; Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
- Người bị hại: Lê Thị Hồng V, sinh năm 1986; Địa chỉ: Khu phố Ninh Tịnh 1, phường 9, TP. Tuy H, tỉnh Phú Yên. (vắng mặt)
NHẬN THẤY
Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuy H, tỉnh Phú Yên truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Khoảng 20 giờ ngày 31/8/2017, sau khi ăn nhậu tại nhà ông Lê H, ở khu phố Ninh Tịnh 5, phường 9, TP. Tuy H, chị Lê Thị Hồng V cùng với Võ Văn T, Võ Văn Thân và Phạm Xuân Hà ở lại giọn dẹp. Lúc này T phát hiện xe mô tô biển số 78E1-211.40 của chị Vdựng trước nhà không khóa yên xe nên lén lút lấy trong cốp xe 01 túi xách da, bên trong có56.000.000đ và một số giấy tờ tùy thân, T mang vào trong ngôi nhà đang xây dựng ở đối diện mở lấy 7.000.000đ, rồi đem túi xách bên trong còn 49.000.000đ và số giấy tờ chôn phía sau ngôi nhà này. Đến sáng ngày 01/9/2017, chị V phát hiện mất túi xách nên cùng em trai là Lê Hùng Vương đến nhà ông H tìm kiếm thì phát hiện túi xách nên đến Công an trình báo sự việc. Sau khi bị phát hiện, T nhờ anh Phạm Xuân Hà đem 7.000.000đ đã trộm trả lại cho chị V.
Tại kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự TP.Tuy H xác định túi xách trên trị giá 30.000đ.
Vật chứng vụ án: Tạm giữ và trả lại cho chủ sở hữu 56.000.000đ; 01 túi xách màu đen sọc trắng, không có nhãn hiệu; giấy CMND tên chị V; giấy phép lái xe tên chị V; giấy đăng ký xe mô tô biển số 78E1-211.40 tên Khái và 02 thẻ ATM.
Tại bản cáo trạng số 101/CT-VKS ngày 29 tháng 11 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân TP. Tuy H, tỉnh Phú Yên đã truy tố bị cáo Võ Văn T về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự 1999.
Kiểm sát viên trình bày lời luận tội và kết luận vụ án giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm e khoản 2 Điều 138; Điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 69; Điều 74 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 09 đến 12 tháng tù.
Căn cứ vào các tài liệu và chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác;
XÉT THẤY
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã nêu, lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án, nên đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20 giờ ngày 31/8/2017, tại khu phố Ninh Tịnh 5, phường 9, TP. Tuy H, bị cáo Võ Văn T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 túi xách da của chị Lê Thị Hồng V, bên trong có 56.000.000đ, tổng giá trị tài sản là 56.030.000đ. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 138 của Bộ luật hình sự. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuy H truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản của người khác, đồng thời làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự ở địa phương. Bị cáo có nhân thân xấu, ngày11/12/2015 bị Công an xã H Trị, huyện Phú H xử phạt hành chính về hành vi “xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác”. Hành vi của bị cáo bất chấp pháp luật, xem thường mối quan hệ tình cảm, xem thường lòng tin của người giúp đỡ mình mà nảy sinh lòng tham chiếm đoạt tài sản, do đó cần xử phạt nghiêm nhằm răn đe giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa chung.
Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội bị cáo đã giao nộp lại tài sản cho người bị hại; trong quá trình điều tra người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, do đó cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 và Điều 47 của Bộ luật hình sự, xử giảm nhẹ dưới mức thấp nhất của khung hình phạt; Khi phạm tội bị cáo chưa đủ 18tuổi, do đó cần áp dụng các Điều 69, Điều 74 của Bộ luật hình sự áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo, học tập tốt.
Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì nên Tòa không xem xét.
Về vật chứng vụ án: Đã trả lại cho chủ sở hữu, nên Tòa không xét.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Võ Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 138; các điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 69; Điều 74 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Võ Văn T 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đểthi hành án.
Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án, người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án 97/2017/HSST ngày 22/12/2017 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 97/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Tuy Hòa - Phú Yên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/12/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về