TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG LA, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 91/2019/HSST NGÀY 27/11/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH VÀ BẮT, GIỮ NGƯỜI TRÁI PHÉP LUẬT
Ngày 27 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ML, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 91/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 105/2019/QĐXXST-HS ngày15 tháng11 năm 2019 đối với các bị cáo:
1. S, sinh năm 1972, nơi sinh: xã CM, huyện ML, tỉnh Sơn La; Nơi ĐKNKTT: Bản CL, xã CM, huyện ML, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: Không biết chữ; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng phái, đoàn thể: Không; Con ông P (đã chết) và bà C, sinh năm 1941, vợ là P, sinh năm 1972, bị cáo có 06 con, con lớn nhất sinh năm 1993, con nhỏ nhất sinh năm 2006. Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giam, tạm giữ từ ngày11 tháng 9 năm 2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.
2.V, sinh năm 1989, nơi sinh: xã CM, huyện ML, tỉnh Sơn La;Nơi ĐKNKTT: Bản CL, xã CM, huyện ML, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng phái, đoàn thể: Không; Con ông P (đã chết) và bà C, sinh năm 1941, vợ là X, sinh năm 1992, bị cáo có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2009, con nhỏ nhất sinh năm 2012. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam, tạm giữ từ ngày11 tháng 9 năm 2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.
3.C, tên gọi khác: HAC,sinh ngày 23/12/2002, nơi sinh: xã CM, huyện ML, tỉnh Sơn La;Nơi ĐKNKTT: Bản Bản CL, xã CM, huyện ML, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Học sinh; Trình độ văn hóa: 11/12; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng phái, đoàn thể: Không; Con ông C, sinh năm 1977 và bà C, sinh năm 1981. Bị cáo chưa có vợ con. Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
4.HAS, sinh năm 1974, nơi nơi sinh: xã CM, huyện ML, tỉnh Sơn La;Nơi ĐKNKTT: Bản CL, xã CM, huyện ML, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: Không biết chữ; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng phái, đoàn thể: Không; Con ông L (đã chết) và bà C, sinh năm 1955, vợ là Giàng Thị Súa, sinh năm 1976, bị cáo có 07 con, con lớn nhất sinh năm 2002, con nhỏ nhất sinh năm 2018. Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giam, tạm giữ từ ngày11 tháng 9 năm 2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.
5. T, sinh ngày 26/03/2002, nơi sinh: xã CM, huyện ML, tỉnh Sơn La; Nơi ĐKNKTT: Bản CL, xã CM, huyện ML, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Học sinh; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng phái, đoàn thể: Không; Con ông C, sinh năm 1974 và S, sinh năm 1972. Bị cáo chưa có vợ con. Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
Người đại diện hợp pháp cho bị cáo C: Ông C, sinh năm 1977. Trú tại: Bản CL, xã CM, huyện ML, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.
Người đại diện hợp pháp cho bị cáo T: ông C, sinh năm 1974. Trú tại: Bản CL, xã CM, huyện ML, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.
Người bị hại: LTS, sinh năm 1979. Trú tại: Bản CL, xã CM, huyện ML, tỉnh Sơn La. Có mặt.
Người làm chứng gồm:
- K, sinh năm 1971. Trú tại: Bản CL, xã CM, huyện ML, tỉnh Sơn La.Vắng mặt không có lý do.
- V, sinh năm 1978. Trú tại: Bản Huổi Ngùa, xã Ngọc Chiến, huyện ML, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.
- L, sinh năm 1979.Trú tại: Bản Huổi Ngùa, xã Ngọc Chiến, huyện ML, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.
- L sinh năm 1997.Trú tại: Bản CL, xã CM, huyện ML, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.
- D, sinh năm 1999. Trú tại: Bản CL, xã CM, huyện ML, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.
- D, sinh năm 1993.Trú tại: Bản CL, xã CM, huyện ML, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.
- H, sinh năm 1974.Trú tại: Bản CL, xã CM, huyện ML, tỉnh Sơn La. Vắng mặt không có lý do.
- Sa, sinh năm 1972.Trú tại: Bản CL, xã CM, huyện ML, tỉnh Sơn La. Vắng mặt không có lý do.
- C, sinh năm 1974. Trú tại: Bản CL, xã CM, huyện ML, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.
- Người bào chữa cho các bị cáo: Bà Cầm Kim Loan, Trợ giúp viên pháp lý – Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.
- Người bảo về quyền lợi cho bị hại: Ông Tòng Văn Minh, Trợ giúp viên pháp lý – Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La. Vắng mặt tại phiên tòa (có gửi bào bào chữa).
- Người phiên dịch: Bà Vàng Thị Dàng, Trú quán tiểu khu 3 thị trân Ít Ong, huyện Mương La. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo S có vợ là MTP (MTP bị bệnh) và đã làm cúng theo phong tục dân tộc Mông nhưng không khỏi, S có nghi ngờ bà LTS làm bùa chài cho bà Pặng ốm lâu không khỏi, nên khoảng 10 giờ 00 phút ngày 27/4/2019 S nhờ HAH đi cùng HAD đến nhà của HAK để yêu cầu LTS đến nhà S cúng cho bà MTP, mục đích để chữa cho bà Pặng khỏi ốm, do đã nhận lời làm cúng cho nhà ông HAK trước và đang cúng dở nên LTS trả lời D“làm cúng cho nhà ông K xong, tôi mới lên” nghe vậy HAHvà HAD quay về nhà báo cho S biết. Sau đó S, Hàng A D, HAD cùng đi đến nhà ông K, D đến trước nói với LTS:“Lên nhà ông Sở để nói chuyện”, LTS hỏi: “nói chuyện gì, mẹ cháu vẫn chưa khỏi à?”, D trả lời: “Mẹ cháu vẫn chưa khỏi, cả người cứng hết rồi”, D bảo LTS lên cúng nhanh, S nói tiếp:“thầy cúng có nhiều, đi nhờ người khác đi”, S vừa nói xong thì ông S đến, S đang tức giận vì gọi nhiều lần bà S không đến, mặt khác có nghi ngờ bà S làm chài cho bà Pặng vợ bị cáo nên Sở cầm lấy 01(một) thanh củi bằng gỗ có sẵn ở ngoài sân nhà ông K đi vào, thấy S đang ngồi trong giường cùng cho vợ ông K, tay phải bà S để trên đùi phải, S đứng đối diện với S và nói : “Bà nhanh nhanh đi giúp tôi làm cúng”, S trả lời : “Chờ tôi một chút”, Sở nói “Không chờ được đâu, vợ tôi ốm nặng lắm rồi, đi thì đi không đi thì chết”, rồi Sở dùng hai tay cầm thanh củi vụt từ trên xuống dưới, từ phải sang trái trúng vào cổ tay phải và đùi phải LTS, S nói: “Ông làm thế này với tôi là ông bắt ép tôi à?”, Sở trả lời: “Vợ tôi ốm nặng như vậy rồi, ép chứ gọi bao nhiêu lần không lên”. Trong lúc Sở, D, D đi đến nhà ông K thì V cùng đi phía sau cầm theo 01 dây thừng bằng nhựa màu xanh (được vặn bằng 03 sợi cước xoắn tròn có đường kính 0,5cm, chiều dài 4,9m) sau khi Sở vụt bà S thì Sở vứt thanh củi xuống nền nhà, Vạng nói với S: “Lên thì lên, không lên sẽ trói và kéo lên”. Do sợ bị trói kéo đi nên Lầu Thi S đi cùng Vạng, Sở, Dinh, D đến nhà S. Khi đến nhà S thì đã có rất nhiều người trong bản CL ở trong nhà của Sở, trong đó có C, HAS, T, Sở nói với S: “Vợ tôi ốm nặng quá, chữa thì chữa, không chữa nhanh có vấn đề gì thì bà biết”, LTS làm cúng 02 (hai) lượt cho bà MTP nhưng không thấy đỡ, sau đó S dùng 01 mảnh vải màu đỏ buộc vào cổ bà Pặng ,thì Sở thấy bà Pặng đỡ một chút, Sở nghĩ bà S đã làm bùa chài nên mới chữa được cho Pặng như vậy, nên Sở nhặt 01 que gỗ to bằng ngón chân cái vụt vào vùng cổ bên trái LTS, LTS ngồi xuống thì Sở dùng chân phải đá vào vùng mặt bên trái S. Trong lúc LTS cúng cho bà Pặng và bị Sở đánh thì V dùng dây thừng màu xanh (Loại dây bằng nilon được vặn bằng 03 sợi xoắn tròn, dây có đường kính 0,5 cm, chiều dài 29,8 mét, do Vạng chuẩn bị từ trước và mang đến) buộc một đầu dây vào cánh tay bên trái bà S, còn Của (Chua) buộc một đầu dây vào cánh tay bên phải bà S, còn C buộc một đầu dây vào cánh tay phải bà S, còn HAS, T cùng vào giữ bà S. Sau khi trói bà S thì Vạng gấp dây lại vắt dây thừng qua xà ngang trong nhà Sở, còn Sử, Tộng cầm phần dây đã vắt qua xà nhà kéo treo người LTS lên và giữ dây thừng, Vạng cùng nhiều người khác (Không xác định được danh tính cụ thể)dùng que tre có sẵn trong nhà và tay chân đánh vào vùng lưng, vùng mông và hai chân của S. Do bị treo và đánh đau nên LTS xin thả xuống để làm cúng cho Pặng, lúc này S mới được thả xuống nhưng vẫn bị trói, không được ăn uống và vệ sinh cá nhân. Đến khoảng 21 giờ 20 phút cùng ngày khi LTS đang làm cúng cho bà Pặng thì anh trai của S là Lầu A Vạng (SN 1978, trú tại Huổi Ngùa-Ngọc Chiến-ML) và em trai là Lầu A Ly (SN 1979, trú tại Huổi Ngùa-Ngọc Chiến-ML) đến nhà S, Lầu A Ly cởi trói cho LTS và bảo con trai S là Hàng A Lử đi báo Công an xã CM đến giải quyết, đến 21 giờ 20 phút ngày 27/4/2019 thì Công an xã CM đến nhà S giải quyết sự việc, do bị trói và giam giữ không được ăn uống nên sức khỏe LTS rất yếu, nên được đưa đến Bệnh viện đa khoa huyện ML để cấp cứu, điều trị, đến ngày 04/5/2019 thì LTS được ra viện về nhà. Bị cáo V là em trai ruột của bị cáo S khai nhận phù hợp với lời khai của S, do nghi ngờ LTS làm bùa chài cho MTP, mặt khác trước đây V bị ốm, Vạng cũng nghi ngờ do S làm bùa chài nên đã dọa S nếu không lên nhà bị cáo Sở làm cúng thì sẽ trói lại và kéo lên, sau đó thì đã trực tiếp tham gia trói và đánh LTS, mục đích để cho bà S đau đớn về thể xác và sợ hãi về tinh thần, nếu người nhà của S không đến thì khi nào S nhận là đã làm bùa chài cho bà Pặng và giải bùa cho bà Pặng thì mới thả.
Bị caó C (HAC), HAS, T khai nhận phù hợp với lời khai của bị cáo S, V. Các bị cáo Của, Sử, Tộng đều nghĩ trước đây bố, mẹ, của các bị cáo bị ốm là do bị LTS làm chài, khi LTS làm cúng cho bà Pặng thì Của, Sử, Tộng đều có mặt trong nhà ông Sở chứng kiến việc S làm cúng, khi đó trong nhà có rất nhiều người chửi bới và đánh bà S, các bị cáo Của, Sử, Tộng, đã tham gia trói và treo LTS và cũng tham gia đánh vào người S, mục đích để S nhận là đã làm chài cho bà Pặng và dân bản, nếu người nhà LTS không đến thì khi nào bà S nhận là đã làm chài cho bà Pặng và chữa khỏi cho bà Pặng thì mới thả ra.
Vật chứng thu giữ gồm:
- 01 dây nilon màu xanh được vặn bằng 03 sợi xoắn tròn, dây có đường kính 0,5 cm, chiều dài 29,8 mét, đã qua sử dụng;
- 01 dây thừng nilon màu xanh được vặn bằng 03 sợi xoắn tròn có đường kính 0,5 cm, chiều dài 4,9 m, đã qua sử dụng;
- 01 gậy gỗ một đầu vát chéo, một đầu đứt gãy nham nhở có chiều dài 64 cm, đường kính 3,5 cm;
- 01 que tre dài 67 cm, rộng 01 cm, dày 0,7 cm hình dẹp dài có cạnh.
- 01 thanh tre dài 77 cm, rộng 02 cm, dày 1,2 cm hình dẹp dài có cạnh.
- 01 thanh tre hình trụ tròn có 05 đốt, dài 81 cm, đường kính một đầu 01 cm, một đầu 0,8 cm.
- 01 gậy gỗ khô hình trụ tròn, trên thân gậy có 10 mắt, dài 90 cm, đường kính một đầu 2,5 cm một đầu 2cm.
Tại bệnh án số: 00517 ngày 04/5/2019 Bệnh viện đa khoa huyện ML xác định tình trạng LTS khi nhập viện: Gãy kín 1/3 dưới xương trụ tay phải (P), đa chấn thương vùng đầu, mặt, hông. Tại bản ảnh chụp xem xét dấu vết trên thân thể LTS bị thương bầm tím hầu hết các bộ phận trên cơ thể Ngày 22/5/2019 cơ quan CSĐT Công an huyện ML ra Quyết định trưng cầu giám định số :26/QĐ, yêu cầu giám định tổn hại % sức khỏe đối với sức khỏe của LTS .Ngày 30/5/2019 Trung tâm pháp y-Sở y tế Sơn La ban hành Bản kết luận giám định số 109/TgT, kết luận: “1.Dấu hiệu qua giám định: Gãy thân xương trụ, can tốt, thẳng trục; 2.Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 08% (Tám phần trăm)”.
Ngày 03/9/2019 cơ quan CSĐT Công an huyện ML ban hành văn bản số 65 yêu cầu Trung tâm pháp y-Sở y tế Sơn La bổ sung kết luận giám định, yêu cầu: Xác định cơ chế gây thương tích, vật gây thương tích 8% cho LTS ngày 27/4/2019 .Cùng ngày Trung tâm pháp y-Sở y tế Sơn La có văn bản số 77 trả lời bổ sung kết luân giám định như sau:“Chấn thương gãy đầu dưới xương trụ cẳng tay phải của LTS tương ứng với vết bầm tím đoạn 1/3 dưới cẳng tay là do tác động trực tiếp của vật tầy cứng gây nên” Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo, người bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.
Tại bản cáo trạng số: 713/CT- VKSML ngày 13 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện ML, tỉnh Sơn La truy tố bị cáo S về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự và tội: Bắt, giữ người trái pháp luật, theo khoản 1 Điều 157 của Bộ luật Hình sự. Truy tố bị cáo V, C, HAS, T về tội: Bắt, giữ người trái pháp luật, theo khoản 1 Điều 157 của Bộ luật Hình sự.
Đề nghị Hội đồng xét xử:
Về tội danh: Tuyên bố bị cáo S phạm tội “Cố ý gây thương tích” và tội “ Bắt, giữ người trái pháp luật. Bị cáo V, C, HAS, T phạm tội “ Bắt, giữ người trái pháp luật”.
Về hình phạt:
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 134; khoản 1 Điều 157; điểm b, i, m, s khoản 1 Điều 51; Điều 55 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo S từ 08 đến 12 tháng tù giam, về tội: Cố ý gây thương tích.
Xử phạt bị cáo S từ 12 đến 18 tháng tù giam, về tội: Bắt giữ người trái phép luật.
Căn cứ khoản 1 Điều 157; điểm b, i m, s khoản 1 Điều 51của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo V từ 09 đến 12 tháng tù giam. Căn cứ khoản 1 Điều 157; điểm b, i m, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo HAS từ 09 đến12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, và ấn định thời gian thử thách.
Căn cứ khoản 1 Điều 157; điểm b,i,m,s khoản 1 Điều 51;Điều 65; Điều 90; Điều 91; khoản 1 Điều 101 của Bộ luật Hình sự .
Xử phạt bị cáo C từ 06 đến 09 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. và ấn định thời gian thử thách Xử phạt bị cáo T từ 06 đến 09 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách.
Vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47; khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
- 01 dây nilon màu xanh được vặn bằng 03 sợi xoắn tròn, dây có đường kính 0,5 cm, chiều dài 29,8 mét, đã qua sử dụng;
- 01 dây thừng nilon màu xanh được vặn bằng 03 sợi xoắn tròn có đường kính 0,5 cm, chiều dài 4,9 m, đã qua sử dụng;
- 01 gậy gỗ một đầu vát chéo, một đầu đứt gãy nham nhở có chiều dài 64 cm, đường kính 3,5 cm;
- 01 que tre dài 67 cm, rộng 01 cm, dày 0,7 cm hình dẹp dài có cạnh.
- 01 thanh tre dài 77 cm, rộng 02 cm, dày 1,2 cm hình dẹp dài có cạnh.
- 01 thanh tre hình trụ tròn có 05 đốt, dài 81 cm, đường kính một đầu 01 cm, một đầu 0,8 cm.
- 01 gậy gỗ khô hình trụ tròn, trên thân gậy có 10 mắt, dài 90 cm, đường kính một đầu 2,5 cm một đầu 2cm.
Là vật mà các bị cáo đã dùng vào việc để phạm tội, không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy những vật chứng trên.
Về trách nhiệm bồi thường:
Tại phiên tòa người bị hai LTS khai các bị cao là người cùng bản , sau khi phạm tội các bị cáo đã ăn năn hối cải, các bị cáo đã bồi thường đầy đủ các khoản chi phí cho người bị hại và người bị hại không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường gì thên.Nên không xem xét.
Các bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.
Trong bản luận cứ bào chữa cho các bị cáo cho rằng: Các bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng S vùng xa, vùng đăc biệt khó khăn về kinh tế, nhận thức pháp luật còn hạn chế. Các bị cáo sau khi phạm tội đã tự nguyện bồi thường cho người bị hại; phạm tội lần đầu; phạm tội do lạc hậu; thành khẩn khai báo. Đề nghị Hội đồng xem xét tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo tại điểm b, i, m, s, khoản 1 Điều 51 BLHS, miễn tiền án cho các bị cáo, để bị cáo yên tâm cải tạo sớm trở về với gia đình và xã hội.
Bản luận cứ bảo vệ cho người bị hại Lâu Thị S. Trợ giúp viên pháp lý cho biết, sau khi các bị cáo phạm tội, các bị cáo đã khắc phục, bồi thường đầy đủ các khoản chi phí cho người bị hại và đã xin lỗi người bị hại. Do vây trước phiên tòa người bị hại không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường gì thêm và người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
Các bị cáo, người bào chữa cho các bị cáo không ai có ý kền tranh luận với viên kiểm sát.
Các bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện ML, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện ML, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người bào chữa cho các bị cáo, người bị hai, người bảo vệ quyền lợi cho người bị hại, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về tội danh: Tại phiên tòa các bị cáo S, V, HAS, , C, T. Khai vào hồi 10 giờ ngày 27/4/2019 bị cáo S đã dùng 01 gậy gỗ một đầu vát chéo, một đầu đứt gãy nham nhở có chiều dài 64 cm, đường kính 3,5 cm nhặt ở sân nhà ông HAK đánh chúng vào đùi phải và tay phải của LTS hâu quả vùng đùi bên phải của LTS bị tím và cổ tay bên phải của LTS bị gãy1/3 xương cổ tay, dẫn đến LTS thương tích 8% sức khỏe. Ngoài ra bị cáo S còn đe dạo Lâu Thi S nêu không lên nhà bị cáo làm cũng cho vợ bị cáo thì chết. Các bị cáo V, C, HAS, T khai nhận các bị cáo đã dùng dây thừng trói, treo LTS trên xa nhà bị cáo Sở vơi mục đích bắt Lâu Thị S phải thừa nhận là S đã làm bùa, làm bả, cho mọi người trong bản bị ôm đau, các bị cáo đều khai nhân việc bắt giữ LTS từ lúc 10 giờ 30 phút ngày 27/4/2019, đến 21 giờ 30 phút cùng ngày, khi gia đình người nhà LTS đến giải cữu thì LTS mới đươc thả.
Xét lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa ngày hôm nay phù hợp với các chứng cứ đã được thu thập: Lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra; đơn trình báo của người bị hại, lời khai của những người làm chứng, vật chứng của vụ án, biên bản khám nghiệm hiện trường, Kết luận pháp y về thương tích.Từ các căn cứ trên có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của bị cáo S đã phạm tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự và tội Bắt, giữ người trái phép luật, được quy định tại khoản 1 Điều 157 Bô luật Hình sự.
Đối với các bị cáo V, C, HAS, T đã giúp sức cho S trong việc bắt, giữ và trói LTS từ 10 giờ 30 phút đến 21 giờ 30 phút cùng ngày. Do vậy, bị cáo S, V, C, HAS, T đã phạm tội: Bắt, giữ người trái phép luật, được quy định tại khoản 1 Điều 157 Bô luật Hình sự.Khoản 1 Điều 157 Bô luật Hình sự.
[3] Về hình phạt. Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo S: Là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý, xâm phạm đến sức khỏe của con người, quyền tự do con người, gây ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội, do đó bị cáo phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Bị cáo đã phạm 02 tội cùng một lúc, là người khởi sướng về việc bắt người và một mình dùng dậy gỗ đánh đập LTS, dẫn đến LTS phải đi cấp cứu tại bệnh viện, với thương tích mất 08%, sức khỏe. xét thấy cần cách ly bị cáo ra khởi xã hội một thời gian mới có thể đảm bảo thời gian, điều kiện giáo dục bị cáo trở thành người tốt, có ích cho gia đình và xã hội.
Đối với bị cáo V, HAS, C, T đã giúp sức, đồng thời cùng S trong việc trói buộc, giữ LầuThị Slại, nên các bị cáo có vai trò là đồng phạm trong tội: Bắt, giữ người trái pháp luật. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý. Do vậy, các bị cáo phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Bị cáo V, phạm tội lân đầu, phạm tội thụôc trường hợp ít nghiêm trọng , sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, khăc phục hậu quả bồi thường cho người bị hại, phạm tội do lạc hâu và bị cáo chưa có tiền án tiền sự. Bị cáo nhân thân thân không không tốt là đối tương nghiện chất ma túy và sống tại địa phương bị cáo không chấp hành hương ươc, quy ước của bản và các chủ trương chính sách của Đảng, và pháp luật. Do đó, cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, để giáo dục các bị cáo trở thành người tốt, có ích cho gia đình và xã hội.
Bị cáo HAS, phạm tội lân đầu, phạm tội thụôc trường hợp ít nghiêm trọng , sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, khăc phục hâu quả bồi thường cho người bị hại, phạm tội do lạc hâu và bị cáo chưa có tiền án tiền sự. Do đó, việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội là không cần thiết, mà cần áp dụng biện pháp giáo dục tại địa phương vẫn đảm bảo tính dăn đe, giáo dục và phòng ngừa chưng. Các bị cáo C, T khi thực hiện tội trong độ tuổi vị thành niên, có nhận thức tuy nhiên còn hạn chế về pháp luật. phạm tội lân đầu, phạm tội thụôc trường hợp ít nghiêm trọng , sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, khăc phục hâu quả bồi thường cho người bị hại, phạm tội do lạc hâu và bị cáo chưa có tiền án tiền sự. Do đó, việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội là không cần thiết, mà cần áp dụng biện pháp giáo dục tại địa phương vẫn đảm bảo tính dăn đe, giáo dục và phòng ngừa chưng và áp dụng các quy định đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định tại Điều 90, Điều 91, khoản 1 Điều 101 của Bộ luật Hình sự để xem xét xử lý đối với các bị cáo C, T.
Xét về vai trò đồng phạm của các bị cáo: Bị cáo S là người khởi sướng việc đe dọa, bắt đánh Lâu Thị S để LTS thưa nhận việc S đã làm bùa cho moi người trong bản bị ôm đau,các bị cáo V, HAS, C, T, khi thấy Sở đánh Lầu thi S, nên đã vào trói và treo LTS lên trên xa nhà Sở để bắt LTS thừa nhân đã làm bùa cho moi người trong bản bị ôm đau, Nên Sở giữ vai trò thứ nhất trong vụ án, đối với Vạng,Sử, Của, Tộng đã trói LTS. Nên Vạng, Sử, Của, Tộng có vai trò là đồng phạm.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: các bị cáo không có.
Tình tiết giảm nhẹ. Các bị đêu có 4 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: sau khi phạm tội đã tự nguyện bồi thường cho người bị hại; phạm tội lần đầu thuôc trương hợp ít nghiêm trọng; phạm tội do lạc hậu; thành khẩn khai báo ăn năn, hối cải, được quy định tại điểm b, i, m, s, khoản 1 Điều 51 BLHS.
[4]. Vật chứng vụ án Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47của Bộ luật Hình sự. Và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
- 01 dây nilon màu xanh được vặn bằng 03 sợi xoắn tròn, dây có đường kính 0,5 cm, chiều dài 29,8 mét, đã qua sử dụng;
- 01 dây thừng nilon màu xanh được vặn bằng 03 sợi xoắn tròn có đường kính 0,5 cm, chiều dài 4,9 m, đã qua sử dụng;
- 01 gậy gỗ một đầu vát chéo, một đầu đứt gãy nham nhở có chiều dài 64 cm, đường kính 3,5 cm;
- 01 que tre dài 67 cm, rộng 01 cm, dày 0,7 cm hình dẹp dài có cạnh.
- 01 thanh tre dài 77 cm, rộng 02 cm, dày 1,2 cm hình dẹp dài có cạnh.
- 01 thanh tre hình trụ tròn có 05 đốt, dài 81 cm, đường kính một đầu 01 cm, một đầu 0,8 cm.
- 01 gậy gỗ khô hình trụ tròn, trên thân gậy có 10 mắt, dài 90 cm, đường kính một đầu 2,5 cm một đầu 2cm.
Là vật mà các bị cáo dùng để phạm tội, không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy những vật chứng trên.
* Về trách nhiệm bồi thường:
Tại phiên tòa người bị hai LTSkhông yêu câu các bị cáo bồi thường gì thêm vì các bị cáo đã bồi thường đầy đủ các khoản chi phí cho người bị hại và không yêu cầu tòa án xem xét giả quyết. Nên hội đồng xét xử không xem xét đến phần trách nhiệm bồi thường.
[5] Về án phí: Các bị cáo đều là hộ nghèo, dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đạc biệt khó khăn, nên căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo S, V, HAS, C, T.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo S phạm tội: “Cố ý gây thương tích” và tội: Bắt, giữ người trái phép luật.
Tuyên bố các bị cáo V; C; HAS; T phạm tội: Bắt, giữ người trái phép luật.
1.Về hình phạt:
- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 134; khoản 1 Điều 157; điểm b,i,m,s khoản 1 Điều 51; Điều 55 của Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo S 08 (tám) tháng tù về tội: Cố ý gây thương tích.
Xử phạt bị cáo S 12 (mười hai ) tháng tù về tội: Bắt, giữ người trái phép luật.
Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành chung của hai tội là: 20(hai mươi) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam, tạm giữ ngày 11/9/2019.
Căn cứ khoản 1 Điều 157; điểm b,i,m, s khoản 1 Điều 51; Điều 17 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo V 10 (mươi) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam, tạm giữ ngày 11/9/2019. Căn cứ khoản 1 Điều 157; điểm b,i,m s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 65 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo HAS 09(chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo.Thời gian thử thách18(mười tám) tháng.Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án, ngày 27/11/2019 Căn cứ khoản 1 Điều 157; điểm b,i,m, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 65; Điều 90; Điều 91; khoản 1 Điều 101của Bộ luật Hình sựcủa Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo C (HAC) 06(sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng.Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án ngày 27/11/2019.
Xử phạt bị cáo T 06(sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo.Thơi gian thử thách12 (mười hai) tháng.Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án. ngày 27/11/2019 Giao các bị cáo HAS, C(HAC), T, cho Ủy ban nhân dân xã CM, huyện ML, tỉnh Sơn La giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú, thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.
2. Vật chứng vụ án:Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47; khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Điều 585, Điều 590 của Bộ luật Dân sự.
Tịch thu tiêu hủy:
- 01 dây nilon màu xanh được vặn bằng 03 sợi xoắn tròn, dây có đường kính 0,5 cm, chiều dài 29,8 mét, đã qua sử dụng;
- 01 dây thừng nilon màu xanh được vặn bằng 03 sợi xoắn tròn có đường kính 0,5 cm, chiều dài 4,9 m, đã qua sử dụng;
- 01 gậy gỗ một đầu vát chéo, một đầu đứt gãy nham nhở có chiều dài 64 cm, đường kính 3,5 cm;
- 01 que tre dài 67 cm, rộng 01 cm, dày 0,7 cm hình dẹp dài có cạnh.
- 01 thanh tre dài 77 cm, rộng 02 cm, dày 1,2 cm hình dẹp dài có cạnh.
- 01 thanh tre hình trụ tròn có 05 đốt, dài 81 cm, đường kính một đầu 01 cm, một đầu 0,8 cm.
- 01 gậy gỗ khô hình trụ tròn, trên thân gậy có 10 mắt, dài 90 cm, đường kính một đầu 2,5 cm một đầu 2cm.
3. Về trách nhiệm dân sự
4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về Án phí, Lệ phí Tòa án: Miễn tiến án phí hình sự sơ thẩm cho các bị. S, V, HAS, C, T.
Các bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 27/11/2019.
Bản án 91/2019/HSST ngày 27/11/2019 về tội cố ý gây thương tích và tội bắt, giữ người trái phép luật
Số hiệu: | 91/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/11/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về