Bản án 87/2021/HS-ST ngày 25/08/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 87/2021/HS-ST NGÀY 25/08/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 25 tháng 8 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên đã tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 86/2021/TLST-HS, ngày 22 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2021/QĐXXST- HS ngày 09 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo:

Sùng A T (tên gọi khác: Không) sinh năm 1984 tại tỉnh Điện Biên. Nơi cư trú: Bản T, xã N, huyện Đ, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Làm nương; trình độ văn hóa: Không; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Sùng Sống N sinh năm 1960 và bà Hờ Thị P sinh năm 1962; Bị cáo có vợ là Lầu Thị M sinh năm 1986 và 05 con (con lớn nhất sinh năm 2003, con nhỏ nhất sinh năm 2010); tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị kết án và chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 14/6/2021 đến ngày 17/6/2021 tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Điện Biên cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Sùng A T: Bà Nguyễn Thị P - Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên. Có mặt tại phiên tòa.

Người phiên dịch cho bị cáo tại phiên tòa: Anh Sùng A C, sinh năm 2000; Trú tại: tổ dân phố16, phường Mường Thanh, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ, ngày 14 tháng 6 năm 2021 tại khu vực thôn X, xã Y, huyện Z, tỉnh Điện Biên, Sùng A T đang thực hiện hành vi vận chuyển trái phép 39,27 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng và bán kiếm lời thì bị tổ công tác của Đồn biên phòng cửa khẩu Quốc tế T phát hiện và bắt quả tang. Nguồn gốc số Methamphetamine thu giữ của Sùng A T là do T trước đó mua được của một người phụ nữ dân tộc Mông khoảng 50 tuổi ở khu vực bản N, xã R, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.

Tại Bản Kết luận giám định số 699/GĐ-PC09 ngày 24/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Điện Biên kết luận:

- Khối lượng vật chứng thu giữ của Sùng A T là 39,27 gam viên nén màu hồng.

- 02 (Hai) mẫu viên nén màu hồng ký hiệu M1, M2 trích ra từ vật chứng thu giữ của Sùng A T gửi giám định là chất ma túy: Loại Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 323, Mục IIC, Danh mục II, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018.

Tại bản Cáo trạng số 46/CT-VKS-P1, ngày 20/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên truy tố ra trước Toà án nhân dân tỉnh Điện Biên để xét xử Sùng A T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, Điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự, tuyên bố bị cáo Sùng A T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Sùng A T mức án từ 16 năm đến 17 năm tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, vật chứng của vụ án còn lại sau khi lấy mẫu giám định cần tịch thu tiêu hủy.

- Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 6 Điều 15, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Trong quá điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên.

Người bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa không có ý kiến tranh luận gì về tội danh, Điều luật và bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên tham gia phiên tòa. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến điều kiện sinh sống, là dân tộc thiểu số, sống ở vùng cao, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, bị cáo bị cụt 1/3 cánh tay phải mất khả năng lao động, bị bệnh ung thư máu từ năm 2019 đến nay chưa được chữa khỏi, không biết chữ nên sự hiểu biết pháp luật còn nhiều hạn chế, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo. Đề nghị của người bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa là có căn cứ theo quy định của pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Thực hiện lời nói sau cùng bị cáo Sùng A T đã thừa nhận toàn bộ sự việc và nhận thức được hành vi mua ma túy về để sử dụng và bán kiếm lời là vi phạm pháp luật, nhưng do điều kiện thực tế bị cáo bị cụt 1/3 cánh tay nên khả năng lao động rất khó khăn, bị ung thư máu từ năm 2019 đến nay sức khỏe yếu bị cáo sử dụng ma túy để nhằm mục đích chữa bệnh và bán để lấy tiền tiếp tục mua ma túy mà không biết được tác hại và hậu quả xẩy ra cho xã hội. Viện kiểm sát truy tố và luận tội đối với bị cáo là đúng, không bị oan sai. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để có cơ hội sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo Sùng A T đã khai nhận: Khoảng 05 giờ sáng ngày 14/6/2021 Sùng A T mang theo 03 triệu đồng và tự mình điều khiển chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA màu đỏ đen, biển kiểm soát 27B1-335.34 của vợ là Lầu Thị M đi từ bản T, xã N, huyện Đ, tỉnh Điện Biên đến khu vực xã R, huyện Z, tỉnh Điện Biên với mục đích tìm mua ma túy về để sử dụng và bán kiếm lời. Khoảng 08 giờ cùng ngày Sùng A T đến khu vực bản N, xã R, huyện Z, tỉnh Điện Biên thì gặp một người phụ nữ dân tộc Mông khoảng 50 tuổi đang làm nương. Tại đây, T mua được 02 túi Methamphetamine với giá 03 triệu đồng của người phụ nữ này, mua xong T cất giấu 02 túi Methamphetamine vào túi áo ngực bên phải rồi điều khiển xe máy đi về. Khoảng 9 giờ cùng ngày, T về đến khu vực thôn X, xã Y, huyện Z, tỉnh Điện Biên thì bị tổ công tác Đồn biên phòng cửa khẩu Quốc tế T phát hiện bắt giữ cùng 02 túi Methamphetamine có tổng khối lượng 39,27 gam.

Lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản niêm phong vật chứng; biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng; biên bản mở niêm phong và giao, nhận đối tượng giám định; kết luận giám định; các biên bản ghi lời khai và các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp trong quá trình điều tra có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có đủ căn cứ xác định, ngày 14/6/2021 bị cáo Sùng A T đã có hành vi mua bán trái phép 39,27 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng và bán kiếm lời.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ các yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Điều 251. Tội mua bán trái phép chất ma túy …3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm:

…b) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam;

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, khẳng định Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo về tội mua bán trái phép chất ma túy, theo Điều luật viện dẫn ở trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, bị cáo không bị oan sai.

[2] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét hành vi mua bán trái phép chất ma túy để bán kiếm lời của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng. Mặc dù biết việc tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng do thiếu ý thức chấp hành pháp luật, để thỏa mãn nhu cầu bản thân và mục đích kiếm lời, bị cáo đã cố ý trực tiếp mua ma túy để bán kiếm lời và sử dụng. Hành vi của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, vi phạm pháp luật cần phải xử lý nghiêm.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa là có căn cứ và phù hợp với hành vi phạm tội và các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt thấy rằng bị cáo sinh sống ở vùng cao là người dân tộc thiểu số, ngoài lần phạm tội này bị cáo chưa bị xét xử về tội danh nào khác và chưa có tiền án, tiền sự; thực tế bị cáo đang bị bệnh ung thư máu và bị cụt 1/3 cánh tay phải mất khả năng lao động nên cần xem xét giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước ta đối với người phạm tội biết ăn năn hối cải, nhưng vẫn phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn tương ứng với hành vi phạm tội để giáo dục bị cáo có ý thức chấp hành pháp luật và phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[3] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, nghề nghiệp của bị cáo là làm nương, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng có giá trị, nếu có áp dụng thì bị cáo cũng không có khả năng thi hành, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Điện Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân nhân tỉnh Điện Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện theo đúng quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, phù hợp với các quy định của pháp luật.

[5] Về vật chứng vụ án: Theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Đối với số ma túy là vật chứng của vụ án còn lại sau khi lấy mẫu giám định cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA màu đỏ đen, biển kiểm soát 27B1- 355.34 bị cáo dùng vào việc vận chuyển trái phép chất ma túy là của Lầu Thị M (vợ bị cáo), Lầu Thị M không biết bị cáo dùng xe để đi mua bán vận chuyển trái phép chất ma túy kèm theo 01 giấy chứng nhận đăng ký xe; 01 giấy phép lái xen mang tên Sùng A T, Cơ quan điều tra đã trả lại tài sản đó cho chủ sở hữu là phù hợp với quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử chấp nhận Quyết định xử lý vật chứng số 21, ngày 29/6/2021 của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Điện Biên.

[6] Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 6 Điều 15, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Sùng A T là người dân tộc thiểu số, gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế khó khăn nên miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[7] Về các vấn đề liên quan khác: Trong vụ án này theo lời khai của bị cáo Sùng A T thì số ma túy cơ quan chức năng thu giữ bị cáo mua của người phụ nữ dân tộc Mông khoảng 50 tuổi ở khu vực N, xã R, huyện Z, tỉnh Điện Biên, do bị cáo không biết tên tuổi và địa chỉ cụ thể của đối tượng này, quá trình điều tra cơ quan điều tra không có đủ cơ sở để xác minh làm rõ, Viện kiểm sát không truy tố, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

1. Tội danh: Tuyên bố bị cáo Sùng A T (tên gọi khác: Không) phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Sùng A T 15 (mười lăm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 14/6/2021.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong bằng phong bì bên trong có chứa 38,27 gam Methamphetamine.

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Điện Biên và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Điện Biên ngày 21/7/2021).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 6 Điều 15, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Sùng A T.

5. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Căn cứ các Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo có quyền kháng cáo Bản án lên Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 25/8/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

125
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 87/2021/HS-ST ngày 25/08/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:87/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;