Bản án 218/2021/HS-ST ngày 27/08/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 218/2021/HS-ST NGÀY 27/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 217/2021/TLST-HS ngày 13/8/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:223/2021/QĐXXST-HS ngày 16/8/2021 đối với bị cáo:

Giàng A D: Sinh năm 1972, tại huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản Ông Lý, xã Chiềng Khừa, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): Không biết chữ; dân tộc: Mông; giơi tính: Nam; tôn giáo: Không; quôc tich: Viêt nam; con ông Giàng A Sênh và bà Sồng Thị Khoa; bị cáo có 02 vợ, vợ thứ nhất là Thào Thị Vế (đã chết) vợ thứ 2 là Phàng Thị Chú, có 05 con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 21/5/2007, TAND huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xử phạt 07 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy và 07 năm tù về tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/6/2021 đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09h00’ ngày 06/6/2021, tổ công tác Công an huyện Mộc Châu làm nhiệm vụ tại bản Vặt, xã Mường Sang, huyện Mộc Châu tiến hành kiểm tra đối với Giàng A D đang đi bộ trên đường liên xã. Qua kiểm tra, phát hiện D đang cầm trong bàn tay trái 01 gói nilon màu xanh và 01 gói nilon màu trắng bên trong đựng 05 viên nén màu hồng, trên bề mặt mỗi viên đều có ký hiệu WY, nghi là Methamphetamine và chất cục bột màu trắng nghi là Heroine. Giàng A D khai nhận đó là 5 viên hồng phiến và Heroine của D tàng trữ để sử dụng cho bản thân nghiện chất ma túy. Căn cứ hành vi vi phạm, tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng và dẫn giải Giàng A D đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu để điều tra, làm rõ.

Ngày 06/6/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu tiến hành xác định khối lượng 05 viên nén màu hồng thu giữ của Giàng A D được 0,49 gam, khối lượng cục chất bột màu trắng nghi là Heroine được khối lượng 0,04 gam. Lấy toàn bộ làm mẫu trưng cầu giám định, mẫu có ký hiệu lần lượt là D1, D2.

Tại Kết luận giám định số 1089 ngày 09/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu D1 là ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,49 gam. Mẫu gửi giám định ký hiệu D2 là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,04 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,49 gam; loại Methamphetamine và 0,04 gam; loại Heroine.” Quá trình điều tra, Giàng A D khai nhận: Bản thân nghiện chất ma tuý. Khoảng 10h00' ngày 02/6/2021, D đi bộ đến xã Mường Sang để tìm việc làm thuê. Khi đi đến khu vực địa phận bản Lùn, xã Mường Sang, D gặp và hỏi mua được của một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết 05 viên hồng phiến gói bằng nilon màu xanh và 01 gói Heroine gói bằng nilon màu trắng với giá 100.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, D cất vào trong túi áo để sử dụng dần. Đến ngày 06/6/2021, D lấy gói Heroine ra sử dụng một ít. Số ma túy còn lại, D cầm theo trong người rồi đi bộ đến thị trấn Mộc Châu tìm việc làm thuê. Trên đường đi gặp tổ công tác Công an huyện Mộc Châu kiểm tra, bắt quả tang.

Bản c áo trạng số 157/CT-VKS ngày 11/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu truy tố bị can Giàng A D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu giữ nguyên cáo trạng truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Giàng A D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và áp dụng các căn cứ pháp luật như sau:

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Giàng A D từ 24 tháng đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự về vật chứng của vụ án đề nghị:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ Giàng A D, bắt ngày 06/6/2021, bên trong đựng vỏ niêm phong ban đầu và mảnh ni lon màu trắng và mảnh ni lon màu xanh; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy với Giàng A D kết quả dương tính.

3. Miễn án phí cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo nhất trí với cáo trạng và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi và trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Về hành vi: Ngày 06/6/2021, Giàng A D đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,53 gam ma túy, trong đó Methamphetamine là: 0,49 gam, Heroine là 0,04 gam.

Căn cứ Điều 4 Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định về tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015.

Điều 4. Việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy trong trường hợp các chất ma túy được quy định trong cùng một điểm thuộc các khoản của một trong các Điều 248, 249, 250, 251, 252 của Bộ luật Hình sự năm 2015 như sau.

Trường hợp các chất ma túy đó đều được quy định trong cùng một điểm của khoản 2, 3, 4 Điều 248; hoặc trong cùng một điểm của khoản 1, 2, 3, 4 Điều 249; hoặc trong cùng một điểm của khoản 1, 2, 3, 4 Điều 250; hoặc trong cùng một điểm của khoản 2, 3, 4 Điều 251; hoặc trong cùng một điểm của khoản 1, 2, 3, 4 Điều 252 của Bộ luật Hình sự năm 2015, thì cộng khối lượng hoặc thể tích của các chất ma túy lại với nhau và đối chiếu với quy định về khối lượng hoặc thể tích của nhóm chất ma túy đó trong các khoản của điều luật được áp dụng để xác định tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất ma túy thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của điều luật được áp dụng.

Với quy định nêu trên thấy rằng bị cáo tàng trữ 0,04 gam Heroine không đủ khối lượng theo khoản 1 Điều 249, do đó không thể áp dụng Điều 4 của Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định. Việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy trong trường hợp các chất ma túy được quy định trong cùng một điểm thuộc các khoản của một trong các điều 248, 249, 250, 251, 252 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Do vậy, Giàng A D phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Về trách nhiệm hình sự: Căn cứ vào khối lượng ma túy bị cáo cất giấu, mục đích tàng trữ đã đu yêu tô câu thanh tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Tại phiên toà, bị cáo giữ nguyên lời khai như đã khai tại cơ quan điều tra, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì. Bị cáo hoàn toàn nhất trí với bản cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu.

Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với vật chứng đã thu giữ; biên bản mở niêm phong xác định số lượng lấy mẫu giám định; kết luận giám định; lời khai của người chứng kiên và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý chất ma tuý của Nhà nước, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, xét về nhân thân của bị cáo xấu, là đối tượng nghiện hút chất ma túy, đã có 01 tiền án về tội cùng loại tuy nhiên đã được xóa án tích nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện và sửa chữa lỗi lầm tiếp tục phạm tội. Do đó cần phải cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải, nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[4] Về hình phạt bổ sung : Quá trình điều tra , xác minh và xét hỏi tại phiên toà thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản riêng gì có giá trị. Do đó không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án:

Đối với 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ Giàng A D, bắt ngày 06/6/2021, bên trong đựng vỏ niêm phong ban đầu và mảnh ni lon màu trắng và mảnh ni lon màu xanh; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy với Giàng A D kết quả dương tính, xét là vật Nhà nước cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Đối với người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết đã bán ma túy cho bị cáo như bị cáo khai, do bị cáo không biết tên tuổi, lai lịch người này nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[7] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc, sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, bị cáo có ý kiến tại phiên tòa xin được miễn án phí, do đó cần miễn án phí hình sự cho bị cáo.

[8] Thơi han tam giam của bị cáo còn dưới 45 ngày nên Hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam đối với bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:Tuyên bố bị cáo Giàng A D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Giàng A D 30 (Ba mươi) tháng tù.

Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 06/6/2021.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Về vật chứng của vụ án:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ Giàng A D, bắt ngày 06/6/2021, bên trong đựng vỏ niêm phong ban đầu và mảnh ni lon màu trắng và mảnh ni lon màu xanh; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy với Giàng A D kết quả dương tính, xét là vật Nhà nước cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 6 Điều 15 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

264
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 218/2021/HS-ST ngày 27/08/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:218/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;