Bản án 87/2021/HS-ST ngày 20/07/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 87/2021/HS-ST NGÀY 20/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 20 tháng 7 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện V xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 71/2021/TLST-HS ngày 07 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 93/2021/QĐXXST- HS, ngày 05 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Đăng T, sinh năm 1986; nơi cư trú: thôn K, xã T, huyện V, tỉnh Bắc Giang; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 09/12; con ông Nguyễn Đăng T (đã chết) và bà Dương Thị H; vợ là Trịnh Thị L, bị cáo có 03 con, con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/01/2021 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang (có mặt tại phiên toà) Nhân thân: Tại Bản án số 168/2015/HSST ngày 14/7/2015 của Toà án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 16 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm về tội “Tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có”

* Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Hữu H, sinh năm 1991 (vắng mặt) Địa chỉ: Tổ dân phố X, thị trấn B, huyện V, tỉnh Bắc Giang

2. Anh giáp Văn T, sinh năm 1991 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang

* Người chứng kiến: Ông Ngô Văn T, sinh năm 1966 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn L, xã T, huyện V, tỉnh Bắc Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ ngày 27/01/2021, tại đoạn đường phía trước cửa quán Karaoke “Quán Quê” thuộc địa phận thôn Thượng Lát, xã Tiên Sơn, huyện V, tỉnh Bắc Giang, tổ công tác của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý (PC04)- Công an tỉnh Bắc Giang phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Đăng T- sinh năm 1986, trú tại: thôn K, xã T, huyện V, tỉnh Bắc Giang đang có hành vi tàng trữ trái chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm:

- Thu tại túi phía trước bên trái quần Nguyễn Đăng T đang mặc 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J6 màu đen ở phần giữa mặt sau điện thoại và ốp điện thoại bằng nhựa màu vàng có 01 túi ni lon màu trắng, viền màu đỏ, một đầu có rãnh khóa bằng nhựa, bên trong chứa 02 viên nén màu hồng đỏ và các chất tinh thể màu trắng, tất cả được niêm phong trong 01 phong bì có ký hiệu “QT”; 01 Chứng minh thư nhân dân số 121716167 và 01 thẻ ngân hàng Vietcombank mang tên Nguyễn Đăng T; Thu tại túi phía trước bên phải quần T đang mặc: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh- đen; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave α, màu sơn xanh, biển kiểm soát 98B1- 848.72.

Tại Bản kết luận giám định số 187/KL-KTHS ngày 29/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bắc Giang kết luận: “Trong phong bì ký hiệu “QT” đã được niêm phong gửi giám định: 02 (hai) viên nén màu hồng đỏ và chất tinh thể màu trắng (đựng trong 01 (một) túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khoá nhựa và viền màu đỏ) đều là ma tuý, có tổng khối lượng 0,406 gam, loại Methamphetamine”.

Nguyễn Đăng T khai nhận về nguồn gốc số ma tuý thu giữ khi bắt quả tang như sau: Số ma túy trên T mua của người đan ông không quen biết vào khoảng 14 giờ ngày 27/01/2021, tại khu vực cầu Đáp Cầu thuộc địa phận phường Đáp Cầu, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh với giá 400.000 đồng.

Với nội dung trên, tại bản cáo trạng số 78/CT-VKS ngày 07/5/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện V đã truy tố bị cáo Nguyễn Đăng T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình giống như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện V truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V luận tội đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đăng T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; Điều 135; 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Xử phạt Nguyễn Đăng T từ 13 đến 15 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 27/01/2021.

Áp dụng hình phạt bổ sung phạt bị cáo số tiền từ 5.000.000đ đến 6.000.000đ.

Về xử lý vật chứng: Trả lại bị cáo Nguyễn Đăng T Chứng minh thư nhân dân, thẻ ATM mang tên Nguyễn Đăng T và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh- đen. Nhưng tạm giữ chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh- đen để đảm bảo thi hành án.

Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu “QT” và 01 chiếc ốp lưng điện thoại bằng nhựa.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J6 màu đen có số IMEl 354402102565371/01.

Bị cáo đồng ý với luận tội của Kiểm sát viên, không có ý kiến tranh luận gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo về thời gian, địa điểm, diễn biến hành vi phạm tội, số ma túy bị thu giữ. Có đủ căn cứ xác định: Hồi 15 giờ ngày 27/01/2021, tại đoạn đường phía trước cửa quán Karaoke “Quán Quê” thuộc địa phận thôn Thượng Lát, xã Tiên Sơn, huyện V, tỉnh Bắc Giang, Nguyễn Đăng T có hành vi tàng trữ trái phép 0,406 gam chất ma tuý Methamphetamine, với mục đích để sử dụng. Khi thực hiện hành vi, bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy. Bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý.

Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Đăng T đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện V truy tố bị cáo là đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo. Cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[4] Về hình phạt: Căn cứ vào nhân thân, tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đề xuất của đại diện Viện kiểm sát về việc áp dụng hình phạt tù giam từ 14 đến 17 tháng đối với bị cáo là phù hợp cần được chấp nhận.

Hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện mau túy, không có tài sản để đảm bảo thi hành án nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là không phù hợp.

[5] Về xử lý vật chứng: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave α, màu xanh, biển kiểm soát 98B1- 848.72 chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp nên Cơ quan điều tra tách các tài liệu liên quan đến chiếc xe mô tô biển kiểm soát 98B1- 848.72 ra khỏi hồ sơ vụ án và tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý sau là phù hợp.

Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J6 màu đen có số IMEl 354402102565371/01 và 01 chiếc ốp lưng điện thoại bằng nhựa là phương tiện phạm tội cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Chứng minh thư nhân dân số 121716167, thẻ ATM mang tên Nguyễn Đăng T và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh- đen có số IMEl 358618065614148 là giấy tờ tuỳ thân và tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của T, T không dùng vào việc phạm tội nên cần trả lại bị cáo. Nhưng tạm giữ chiếc điện thoại để đảm bảo thi hành án.

Số ma túy thu giữ được là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí, được quyền kháng cáo theo quy định.

[7] Đối với người mà bị cáo khai đã bán mau túy cho bị cáo và cho bị cáo sử dụng ma túy; do không có căn cứ nên cơ quan điều tra không xem xét xử lý là phù hợp.

Bị cáo có quyền kháng cáo và phải chịu án phí theo quy định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 tNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Đăng T 13 (mười ba) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 27/01/2021.

Xử lý vật chứng: Trả lại bị cáo Nguyễn Đăng T Chứng minh thư nhân dân số 121716167, thẻ ATM mang tên Nguyễn Đăng T và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh- đen có số IMEl 358618065614148. Nhưng tạm giữ chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh- đen để đảm bảo thi hành án.

Tịch thu tiêu hủy phong bì thư ký hiệu “QT” bên trong chứa số ma túy còn lại sau giám định được đựng trong túi nilon màu trắng một đầu có rãnh khóa nhựa và viền màu đỏ. Phong bì có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J6 màu đen có số IMEl 354402102565371/01 và 01 chiếc ốp lưng điện thoại bằng nhựa Về án phí: Bị cáo Nguyễn Đăng T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luât thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Án xử công khai sơ thẩm

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

132
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 87/2021/HS-ST ngày 20/07/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:87/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Việt Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;