Bản án 86/2020/HNGĐ-ST ngày 28/08/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 86/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Không tham gia Ngày 28 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thành xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số: 141/2020/TLST- HNGĐ, ngày 07 tháng 5 năm 2020 về tranh chấp Hôn nhân và Gia đình, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 92/2020/QĐXXST-HNGĐ, ngày 14 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 97/2020/QĐST, ngày 29 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: chị Nguyễn Thị N - sinh năm 1991.

Địa chỉ cư trú: xóm 9, xã Liên Thành, Yên Thành, Nghệ An.(có mặt)

- Bị đơn: anh Thái Văn H - sinh năm 1988.

Địa chỉ cư trú: xóm 9, xã Liên Thành, Yên Thành, Nghệ An.(vắng mặt lần thứ 2 không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn ly hôn đề ngày 04/02/2020, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án chị Nguyễn Thị N trình bày: Chị và anh Thái Văn H đăng ký kết hôn vào ngày 23/11/2012 tại UBND xã Liên Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Hôn nhân hoàn toàn tự nguyện. Sau ngày kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian khoảng 8 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu do tính cách không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống, hai bên thường xảy ra xô xát, cãi vã thậm chí xúc phạm lẫn nhau. Chị đã nhiều lần khuyên nhủ anh H để vợ chồng sống hạnh phúc như trước nhưng không đem lại kết quả gì. Mâu thuẫn ngày càng trở nên trầm trọng, vợ chồng đã sống ly thân 2 năm nay, không còn quan tâm tới nhau. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng thực sự không còn, không có khả năng hàn gắn đoàn tụ được nữa, nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Thái Văn H.

- Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung là: Thái Thùy Linh - sinh ngày 24/4/2013; Thái Ngọc Diệp - sinh ngày 06/8/2014 và Thái Hoàng Duy - sinh ngày 08/11/2016. Ly hôn chị có nguyện vọng nuôi dưỡng con chung là Thái Thùy Linh và Thái Ngọc Diệp vì hiện tại 2 con chung đang ở với chị; còn con chung Thái Hoàng Duy giao anh H nuôi dưỡng vì hiện tại con chung đang ở với anh H. Chị đề nghị Tòa án giữ nguyên hiện trạng để các con chung ổn định tránh xáo trộn. Tuy chị N có nguyện vọng nuôi hai con nhưng chị N không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng tiền nuôi con.

Về phía bị đơn anh Thái Văn H trong quá trình giải quyết, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh H vẫn không có mặt. Tòa án đã trực tiếp tống đạt giấy triệu tập và các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh H theo đúng quy định của pháp luật nhưng do anh H không có mặt tại địa phương. Tòa án đã tiến hành niêm yết theo quy định của pháp luật. Do anh H vắng mặt không có lý do nên Tòa án không tiến hành phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải và cũng không tiến hành lấy lời khai của anh H được. Tuy nhiên qua tài liệu do nguyên đơn cung cấp và qua biên bản xác minh tại địa phương cũng như đơn tự nguyện của con chung thì tình trạng hôn nhân, con chung chưa thành niên giữa chị N và anh H đúng như chị N trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và xem xét ý kiến trình bày của chị Nguyễn Thị N, Hội đồng xét xử nhận định:

1.Về tố tụng:

Đây là vụ án tranh chấp Hôn nhân và Gia đình được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án. Bị đơn là anh Thái Văn H có hộ khẩu thường trú tại xóm 9, xã Liên Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Yên Thành được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho chị N và anh H, yêu cầu các bên có mặt tại Toà án để giải quyết vụ án nhưng anh H không có mặt. Vì vậy Toà án giải quyết vắng mặt anh H theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, làm cơ sở giải quyết vụ án.

Ngày 14/7/2020, Tòa án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập đến phiên toà và đã tống đạt hợp lệ cho các đương sự. Tại phiên toà lần thứ nhất chị N có mặt, anh H vắng mặt không có lý do, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà. Để tiếp tục giải quyết vụ án, Toà án tiếp tục tống đạt các văn bản tố tụng phiên toà lần thứ hai cho các bên đương sự tuy nhiên tại phiên toà hôm nay anh H tiếp tục vắng mặt không có lý do. Như vậy, anh H đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Do đó Tòa án căn cứ khoản 2 điều 227 để xét xử vắng mặt đối với bị đơn.

2. Về nội dung:

- Quan hệ hôn nhân: Xét hôn nhân giữa chị N và anh H là hôn nhân hợp pháp, tuân thủ theo quy định của pháp luật. Song qua xem xét thực tế thì thấy rằng cuộc sống chung của vợ chồng thời gian gần đây không được hạnh phúc, mâu thuẫn liên tục xảy ra và thực sự căng thẳng, trầm trọng, hai bên đã sống ly thân, không còn quan tâm, trách nhiệm gì với nhau nữa. Mặc dù trong suốt quá trình giải quyết vụ án anh H không có mặt nhưng căn cứ vào các tài liệu chứng cứ, lời trình bày của nguyên đơn và biên bản xác minh tình trạng hôn nhân tại địa phương từ đó cho thấy tình cảm vợ chồng giữa chị N, anh H không còn gắn kết, mục đích hôn nhân không đạt được, hai bên đã không còn quan tâm trách nhiệm với nhau nữa. Vì vậy việc chị N làm đơn xin ly hôn với anh Thái Văn H là có căn cứ, cần chấp nhận.

- Về quan hệ con chung: Chị N, anh H có 03 con chung là Thái Thùy Linh - sinh ngày 24/4/2013; Thái Ngọc Diệp - sinh ngày 06/8/2014 và Thái Hoàng Duy - sinh ngày 08/11/2016. Ly hôn chị có nguyện vọng nuôi dưỡng con chung là Thái Thùy Linh và Thái Ngọc Diệp; còn con chung Thái Hoàng Duy giao anh H nuôi dưỡng; với lý do 2 con chung Thái Thùy Linh, Thái Ngọc Diệp hiện đang ở với chị còn con chung Thái Hoàng Duy hiện đang ở với anh H. Chị đề nghị Tòa án giữ nguyên hiện trạng để các con chung ổn định tránh xáo trộn.Tuy chị N có nguyện vọng nuôi hai con nhưng chị N không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng tiền nuôi con.

Xét tình hình thực tế từ khi vợ chồng ly thân thì cháu Linh và cháu Diệp đã ở cùng với chị N về sinh sống bên ngoại ổn định. Cháu Duy hiện đang sinh sống ổn định cùng anh H và gia đình bên nội. Mặc dù tại phiên tòa anh H vắng mặt nhưng qua các tài liệu chứng cứ, biên bản xác minh con chung chưa thành niên, đơn tự nguyện của con chung thì hiện trạng con chung hiện nay đúng như chị N trình bày nên cần xem xét nguyện vọng nuôi con của chị N trên cơ sở thực tế tuy thu nhập từ lương công nhân của chị không cao (từ 6.000.000 đồng - 7.000.000 đồng có bảng lương được Lãnh đạo Công Ty may Vina xác nhận lưu tại hồ sơ vụ án) nhưng bên cạnh chị có gia đình và người thân hỗ trợ nên bảo đảm được cuộc sống cho 3 mẹ con. Vì vậy nên cần giữ nguyên hiện trạng để ổn định sinh hoạt của con chung do đó tiếp tục giao 2 con chung Thái Thùy Linh - sinh ngày 24/4/2013; Thái Ngọc Diệp - sinh ngày 06/8/2014 cho chị N nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi trưởng thành. Giao con chung là Thái Hoàng Duy - sinh ngày 08/11/2016 cho anh Thái Văn H nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi trưởng thành là phù hợp với tình hình thực tế, phù hợp với nguyện vọng của con chung và phù hợp quy định pháp luật.

Xét điều kiện hiện nay của chị N bảo đảm được cuộc sống của chị và các con, hơn nữa chị tự nguyện và tha thiết được nuôi 2 con chung đang sinh sống cùng với chị nên việc chị không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho chị cần chấp chận sự tự nguyện này.

- Quan hệ tài sản: Chị N không yêu cầu tòa án giải quyết nên miễn xét.

*Về án phí: Chị N phải nộp án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 điều 28; khoản 2 điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự:

điều 51; 56; 81; 82; 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình:

- Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị N được ly hôn anh Thái Văn H.

- Về con chung: Tiếp tục giao 2 con chung là Thái Thùy Linh - sinh ngày 24/4/2013; Thái Ngọc Diệp - sinh ngày 06/8/2014 cho chị Nguyễn Thị N nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi trưởng thành. Tiếp tục giao con chung là Thái Hoàng Duy - sinh ngày 08/11/2016 cho anh Thái Văn H nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi trưởng thành.

Chị N, anh H không trự tiếp nuôi con có bên có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.

- Án phí: Căn cứ vào khoản 4 điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; điều 27 Nghị quyết 326 /2016/UBTVQH, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí tòa án.

Buộc chị Nguyễn Thị N phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, án phí của chị N được tính trừ vào tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Yên Thành (Biên lai thu tiền số: 0000392, ngày 24 tháng 4 năm 2020), chị N đã nộp đủ án phí.

Án xử công khai sơ thẩm. Tuyên bố để các bên đương sự biết, nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

394
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 86/2020/HNGĐ-ST ngày 28/08/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:86/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;