Bản án 86/2019/HNGĐ-ST ngày 25/12/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình giữa chị L và anh C

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T1, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 86/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/12/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH GIỮA CHỊ L VÀ ANH C

Ngày 25 tháng 12 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T1, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 279/2019/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 10 năm 2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 89/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 11 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 75/2019/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 12 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị L, sinh năm 1987.

Đa chỉ: Thôn ĐH, xã NH, huyện T1, tỉnh Thái Bình (chị L vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Tống Văn C, sinh năm 1975.

Đa chỉ: Thôn PV, xã NH1, huyện T1, tỉnh Thái Bình (anh C vắng mặt lần thứ hai không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Trần Thị L trình bày:

Chị và anh Tống Văn C, sinh năm 1975, có địa chỉ tại thôn PV, xã NH1, huyện T1, tỉnh Thái Bình tự nguyện tìm hiểu và kết hôn với nhau vào ngày 12/8/2005 được Uỷ ban nhân dân xã NH1, huyện T1, tỉnh Thái Bình chứng nhận kết hôn. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hòa thuận được khoảng 05 năm, sau đó vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, vợ chồng khác biệt về quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cãi vã. Anh chị sống ly thân khoảng 09 năm, chị đã chuyển về nhà ngoại sinh sống. Nay xác định tình cảm không còn, không thể quay về chung sống và đoàn tụ được nữa, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Tống Văn C.

Về con chung, chị và anh C có 03 con chung là Tống Thị L1, sinh ngày 16/8/2007; Tống Thu T, sinh ngày 14/01/2010 và Tống Thu H, sinh ngày 14/01/2010. Hiện nay, con Tống Thị L1 đang ở với bố và ông bà nội; hai con Tống Thu T và Tống Thu Hđang ở với mẹ và ông bà ngoại. Ly hôn, chị đề nghị Tòa án giao cho chị được chăm sóc nuôi dưỡng hai con chung Tống Thu T và Tống Thu H.

Giao cho anh C được chăm sóc nuôi dưỡng con Tống Thị L1. Hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng nhau.

Về tài sản chung, Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã gửi cho anh Tống Văn C thông báo thụ lý, thông báo đến phiên công khai chứng cứ và hòa giải, tuy nhiên anh C không đến Tòa án.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 15/11/2019 tại Trụ sở Ủy ban nhân dân xã NH1, huyện T1, tỉnh Thái Bình; ông Tống Ngọc C1, sinh năm 1950 (ông C1 là bố đẻ anh Tống Văn C) trình bày:

Ông là bố đẻ anh Tống Văn C1, hiện nay con trai ông là anh C đang đi làm ăn ở tỉnh ngoài, con trai ông vẫn thi thoảng về gia đình và L lạc với gia đình qua điện thoại. Gia đình ông đã nhận được thông báo thụ lý, giấy báo và văn bản tố tụng của Tòa án. Ông đã thông báo cho anh C biết, tuy nhiên do anh C đi làm ăn xa nên không lên Tòa để làm việc được. Theo ông C1, con trai ông và chị L tự nguyện tìm hiểu và kết hôn năm 2005 tại UBND xã NH1, huyện T1. Hai vợ chồng đã có 03 con là Tống Thị L1, sinh năm 2007; Tống Thu H và Tống Thu T , sinh năm 2010. Hiện nay cháu L1 đang ở cùng gia đình nhà nội tại xã NH1; hai cháu H và T đang ở cùng mẹ. Về tài sản, nợ chung của vợ chồng anh C và chị L không có gì. Nay chị L có đơn xin ly hôn anh C thì quan điểm của gia đình như sau: Về hôn nhân, gia đình ông và anh C cũng nhất trí ly hôn. Về con chung: Anh C có điện về cho ông nói là nguyện vọng muốn được nuôi cháu L1; giao cho chị L nuôi dưỡng hai cháu H và T. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.Theo ông C1, anh C đi làm ăn xa nên không lên Tòa án được. Ông nhận các văn bản của Tòa án và cam kết thông báo cho con trai ông. Con trai ông đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Biên bản lấy lời khai có chữ ký của ông C1 và xác nhận của Chủ tịch UBND xã NH1, huyện T1, tỉnh Thái Bình.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện T1, tỉnh Thái Bình phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử xử cho chị Trần Thị L được ly hôn anh Tống Văn C. Về con chung, giao cho anh C được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Tống Thị L1, sinh ngày 16/8/2007; giao cho chị L được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung Tống Thu T, sinh ngày 14/01/2010 và Tống Thu H, sinh ngày 14/01/2010; hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng nhau; anh C và chị L có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở. Về tài sản chung, và nợ chung do đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả giải quyết tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn là chị Trần Thị L vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn là anh Tống Văn C vắng mặt lần thứ hai không có lý do, vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị L và anh C.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

[2.1] Chị Trần Thị L và anh Tống Văn C kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, là hôn nhân hợp pháp. Căn cứ yêu cầu giải quyết ly hôn của chị L cung cấp phù hợp với các tài liệu chứng cứ Tòa án thu thập trong quá trình giải quyết vụ án nên xác định: Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hạnh phúc được khoảng 05 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, vợ chồng khác biệt về quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cãi vã. Anh chị đã sống ly thân khoảng 09 năm, chị L đã chuyển về nhà ngoại sinh sống.

[2.2] Chị L có đơn xin ly hôn, Tòa án đã ra thông báo thụ lý, thông báo đến tham gia phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải, anh C không đến Tòa án. Qua gia đình, anh C cũng đồng ý ly hôn. Như vậy, có thể thấy tình cảm vợ chồng của chị L và anh C đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xử cho chị Trần Thị L được ly hôn anh Tống Văn C.

[3] Về con chung: Chị L và anh C có 03 con chung là Tống Thị L1, sinh ngày 16/8/2007; Tống Thu T, sinh ngày 14/01/2010 và Tống Thu H, sinh ngày 14/01/2010. Hiện nay, con Tống Thị L1 đang ở với bố và ông bà nội; hai con Tống Thu T và Tống Thu H đang ở với mẹ và ông bà ngoại. Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cho anh C được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Tống Thị L1, sinh ngày 16/8/2007 (con L1 có nguyện vọng được ở với bố); giao cho chị L được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung Tống Thu T, sinh ngày 14/01/2010 và Tống Thu H, sinh ngày 14/01/2010 (hai con T và H có nguyện vọng được ở với mẹ); hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng nhau; anh C, chị L có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở, vấn đề thay đổi nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con chung được đặt ra giải quyết khi các bên đương sự có yêu cầu.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Do các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Trần Thị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQT14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án:

1. Về quan hệ hôn nhân:

Xử cho chị Trần Thị L được ly hôn anh Tống Văn C.

2. Về con chung:

Giao cho anh Tống Văn C được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Tống Thị L1, sinh ngày 16/8/2007; giao cho chị Trần Thị L được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung Tống Thu T, sinh ngày 14/01/2010 và Tống Thu H, sinh ngày 14/01/2010; hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng nhau; anh C, chị L có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở, vấn đề thay đổi nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con chung được đặt ra giải quyết khi các bên đương sự có yêu cầu.

3. Về tài sản chung và nợ chung:

Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí:

Nguyên đơn là chị Trần Thị L phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, khấu trừ số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí chị L đã nộp theo Biên lai số 0009305 ngày 25/10/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T1, tỉnh Thái Bình. Chị Trần Thị L đã nộp đủ án phí.

5. Quyền kháng cáo:

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

284
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 86/2019/HNGĐ-ST ngày 25/12/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình giữa chị L và anh C

Số hiệu:86/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;