TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T1, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 21/2019/HNGĐ-ST NGÀY 17/05/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH GIỮA ANH T VÀ CHỊ N
Ngày 17 tháng 5 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T1, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 64/2019/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 3 năm 2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2019; giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Vũ Văn T, sinh năm 1981.
Địa chỉ: Số nhà AB, ngõ CD, đường BV, khu B, thị trấn T1, huyện T1, tỉnh Thái Bình (Có mặt).
- Bị đơn: Chị Đặng Thị N, sinh năm 1993.
Hộ khẩu thường trú: Số nhà AB, ngõ CD, đường BV, khu B, thị trấn T1, huyện T1, tỉnh Thái Bình.
Hiện đang chấp hành án tại Trại giam số X, huyện YĐ, tỉnh TH (vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn xin ly hôn và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là anh Vũ Văn T trình bày:
Anh và chị Đặng Thị N tự nguyện tìm hiểu và kết hôn với nhau vào ngày 26/7/2012 được Uỷ ban nhân dân thị trấn T1, huyện T1, tỉnh Thái Bình chứng nhận kết hôn. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, chị N có nhiều mối quan hệ ngoài xã hội, vợ chồng thường xuyên cãi vã. Đến năm 2017, chị N bị Tòa án nhân dân huyện T1 xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Hiện chị N đang chấp hành án phạt tù tại trại giam số X, Bộ công an. Nay xác định tình cảm không còn, không thể quay về chung sống và đoàn tụ được nữa, anh T đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Đặng Thị N.
Về con chung, anh T xác định anh chị có 01 con chung là Vũ Đặng TA, sinh ngày 06/3/2013, hiện nay con TA đang ở với anh T. Khi ly hôn, anh đề nghị Tòa án giao cho anh được trực tiếp nuôi dưỡng con chung TA và không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh.
Về tài sản chung, anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 19/4/2019 tại Trại giam số X-Bộ Công an, chị Đặng Thị N trình bày:
Chị và anh Vũ Văn T tự nguyện tìm hiểu và kết hôn với nhau vào ngày 26/7/2012 được Uỷ ban nhân dân thị trấn T1, huyện T1, tỉnh Thái Bình chứng nhận kết hôn. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 03 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp. Đến năm 2016 thì vợ chồng chị sống ly thân. Hiện nay, chị đang chấp hành án phạt tù tại Trại giam số X - Bộ Công an (thị trấn TN, huyện YĐ, tỉnh TH). Nay anh T có đơn xin ly hôn chị, chị đồng ý ly hôn.
Về con chung, chị N xác định chị và anh T có 01 con chung là Vũ Đặng TA, sinh ngày 06/3/2013, hiện nay con TA đang ở với anh T, vì điều kiện đang phải chấp hành án phạt tù nên chị đồng ý giao con chung Vũ Đặng TA cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng.
Về tài sản chung, chị N xác định anh chị có tạo lập được khối tài sản khoảng 300.000.000 đồng nhưng chị không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản.
Ngoài ra, chị N xin vắng mặt tại phiên tòa và đề nghị Tòa án sớm giải quyết cho chị và anh T được ly hôn. Biên bản có xác nhận của người chứng kiến là ông Trần Văn D, cán bộ và bà Nguyễn Thị H, Phó Giám thị Trại giam số X-Bộ Công an.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện T1, tỉnh Thái Bình phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử xử cho anh Vũ Văn T được ly hôn chị Đặng Thị N. Về con chung, giao con chung Vũ Đặng TA, sinh ngày 06/3/2013 cho anh T được trực tiếp nuôi dưỡng, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với chị Đặng Thị N; chị N có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở. Về tài sản chung, do đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả giải quyết tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Nguyên đơn là anh Vũ Văn T có mặt, bị đơn là chị Đặng Thị N vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt, vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị N.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Vũ Văn T và chị Đặng Thị N kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, là hôn nhân hợp pháp. Căn cứ yêu cầu giải quyết ly hôn của anh T cung cấp phù hợp với các tài liệu chứng cứ Tòa án thu thập trong quá trình giải quyết vụ án nên xác định: Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận được khoảng 03 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, vợ chồng thường xuyên cãi vã, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Hiện nay, chị N đang chấp hành án phạt tù tại Trại giam số X-Bộ Công an. Anh T có đơn xin ly hôn chị N, chị N đồng ý. Như vậy, có thể thấy tình cảm vợ chồng của anh T và chị N đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xử cho anh Vũ Văn T được ly hôn chị Đặng Thị N.
[3] Về con chung: Anh T và chị N có 01 con chung là Vũ Đặng TA, sinh ngày 06/3/2013. Giao con chung TA cho anh T được trực tiếp nuôi dưỡng, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với chị Đặng Thị N; chị N có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở, vấn đề thay đổi nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con chung được đặt ra giải quyết khi các bên đương sự có yêu cầu.
[4] Về tài sản chung: Do các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.
[5] Về án phí: Anh Vũ Văn T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 227; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án:
1. Về quan hệ hôn nhân:
Xử cho anh Vũ Văn T được ly hôn chị Đặng Thị N.
2. Về con chung:
Giao con chung Vũ Đặng TA, sinh ngày 06/3/2013 cho anh T được trực tiếp nuôi dưỡng, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với chị Đặng Thị N; chị N có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở, vấn đề thay đổi nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con chung được đặt ra giải quyết khi các bên đương sự có yêu cầu.
3. Về tài sản chung:
Không đặt ra giải quyết.
4. Về án phí:
Nguyên đơn là anh Vũ Văn T phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, khấu trừ số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí anh T đã nộp theo Biên lai số 0008996 ngày 28/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T1, tỉnh Thái Bình. Anh Vũ Văn T đã nộp đủ án phí.
5. Quyền kháng cáo:
Nguyên đơn là anh Vũ Văn T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày 17/5/2019; bị đơn là chị Đặng Thị N vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án./.
Bản án 21/2019/HNGĐ-ST ngày 17/05/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình giữa anh T và chị N
Số hiệu: | 21/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 17/05/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về