Bản án 85/2021/HNGĐ-ST ngày 16/07/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 85/2021/HNGĐ-ST NGÀY 16/07/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 16 tháng 7 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An mở phiên tòa để xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 68/2021/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2021 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 97/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 6 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Đ, sinh năm 1989 Trú tại: Khối 6, phường Nghi T, thị xã C, tỉnh Nghệ An. Có đơn xin xử vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Trần Văn K, sinh năm 1985 Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Khối 4, phường Nghi T, thị xã C, tỉnh Nghệ An.

Hiện cư trú tại Hàn Quốc. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, trình bày tại bản tự khai nguyên đơn Chị Trần Thị Đ trình bày: Chị và Anh Trần Văn K kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 15/5/2013 tại Ủy ban nhân dân phường Nghi T, thị xã C, tỉnh Nghệ An. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc với nhau được một thời gian thì đầu năm 2018 phát sinh mâu thuẫn. Đến năm 2019 anh K bỏ đi xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc. Thời gian đầu vợ chồng vẫn liên lạc nhưng do ở xa nhau, không tin tưởng lẫn nhau nên không có điều kiện để vun đắp tình cảm mà ngày càng mâu thuẫn trầm trọng. Đến cuối năm 2019 thì vợ chồng không còn liên lạc với nhau, anh K cũng không gửi tiền về nuôi con. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị Đức làm đơn khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết cho chị được ly hôn Anh Trần Văn K.

Về con chung: Chị Trần Thị Đ và Anh Trần Văn K có một con chung là Trần Như Ý, sinh ngày 24/02/2019, hiện nay, cháu đang sống cùng với mẹ. Ly hôn, chị Đức có nguyện vọng Tòa án giao con chung cho chị trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng chị Đ và anh K không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn là Anh Trần Văn K: Quá trình từ khi thụ lý vụ án cho đến nay, bị đơn là Anh Trần Văn K vắng mặt. Chị Trần Thị Đ không cung cấp được địa chỉ cụ thể hiện nay anh K cư trú, chị chỉ biết hiện nay anh K đang sinh sống tại Hàn Quốc. Tòa án đã hai lần gửi văn bản yêu cầu ông Trần Văn Hạnh và bà Phạm Thị Lợi (là bố mẹ đẻ của anh K) cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cũng như yêu cầu họ thông báo với anh K để gửi lời khai về cho Tòa án. Tuy nhiên, tại biên bản xác minh ông Hạnh cho biết thời gian ở nước ngoài, anh K thường xuyên liên lạc về với ông bà qua điện thoại, ông bà có hỏi địa chỉ của anh K ở Hàn Quốc nhưng anh K không cung cấp nên ông bà không cung cấp được địa chỉ của anh K cho Tòa án mà chỉ biết hiện nay anh K đang sinh sống tại Hàn Quốc. Ông bà đã thông báo cho anh K biết về việc Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An đang thụ lý, giải quyết vụ án hôn nhân gia đình sơ thẩm giữa chịĐ và anh K, thông qua ông bà anh K cũng đồng ý ly hôn với chịĐ và đồng ý giao con chung là cháu Trần Như Ý cho chịĐ nuôi dưỡng.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An phát biểu ý kiến: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56, 81, 82 và Điều 83 Luật hôn nhân gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho Chị Trần Thị Đ ly hôn với Anh Trần Văn K. Về con chung: Đề nghị giao con chung là Trần Như Ý, sinh ngày 24/2/2019 cho Chị Trần Thị Đ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; Về cấp dưỡng nuôi con: ChịĐ không yêu cầu nên không xem xét. Về tài sản chung, nợ chung: ChịĐ không yêu cầu nên không xem xét; giành quyền khởi kiện về chia tài sản chung, nợ chung cho các đương sự trong vụ án dân sự khác khi có yêu cầu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Trần Thị Đ hiện cư trú tại Việt Nam làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với Anh Trần Văn K hiện cư trú ở nước ngoài; trước xuất cảnh, anh K có địa chỉ cư trú tại tỉnh Nghệ An nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An theo quy định tại Điều 37, Điều 40, Điều 469 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 122, Điều 123, Điều 127 Luật hôn nhân và gia đình.

[1.2] Về sự vắng mặt của đương sự: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị đơn là Anh Trần Văn K vắng mặt, Tòa án đã tiến hành xác minh tại ông Phạm Văn Hạnh (là bố đẻ của anh K) yêu cầu ông bà cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn và thông báo cho anh K biết để gửi lời khai về cho Tòa án. Tuy nhiên, ông bà không cung cấp được địa chỉ hiện nay của anh K; đến nay Tòa án vẫn chưa nhận được văn bản trình bày ý kiến của anh K liên quan đến yêu cầu khởi kiện nên được coi như trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết. Vì vậy, Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung, Tòa án đã tiến hành cấp tống đạt, niêm yết các văn bản tố tụng tại địa chỉ nơi trú cuối cùng của anh K trước khi xuất cảnh theo đúng quy định pháp luật. Vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 2 Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn Chị Trần Thị Đ có đơn xin xử vắng mặt.

Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Chị Trần Thị Đ, Hội đồng xét xử thấy rằng:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Đ và Anh Trần Văn K kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, chịĐ và anh K sống với nhau hạnh phúc được một thời gian thì đến năm 2018 phát sinh mâu thuẫn. Tháng 4/2019, anh K đi xuất khẩu lao tại Hàn Quốc. Từ đó, giữa hai vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống. Quá trình vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, mặc dù đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng không thể hàn gắn và ngày càng trở nên trầm trọng. Từ cuối năm 2019, chị Đ và anh K không còn liên lạc với nhau. Xét thấy, chịĐ và anh K không còn tình cảm vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được, vì vậy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chịĐ, căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cho Chị Trần Thị Đ được ly hôn Anh Trần Văn K.

[2.2]. Về con chung: Chị Trần Thị Đ và Anh Trần Văn K có một con chung là Trần Như Ý, sinh ngày 24/2/2019, hiện đang ở với chịĐ. Ly hôn, chịĐ có nguyện vọng giao con chung cho chị trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và chịĐ không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con. Nguyện vọng của chị Đ là chính đáng, phù hợp với quy định của pháp luật và điều kiện thực tế, vì hiện nay, Anh Trần Văn K đang ở nước ngoài và cố tình dấu địa chỉ. Do đó, căn cứ vào các Điều 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của chịĐ. Giao cho chịĐ được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Trần Như Ý, sinh ngày 24/2/2019 cho đến lúc đủ 18 tuổi, trưởng thành.

Về cấp dưỡng nuôi con, chịĐ không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét. Dành quyền khởi kiện cho chịĐ khi có yêu cầu.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Trần Thị Đ không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Dành quyền khởi kiện về tài sản chung, nợ chung cho các đương sự trong một vụ án dân sự khác khi có yêu cầu.

[3] Về án phí sơ thẩm: Chị Trần Thị Đ phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84; Điều 122; Điều 123; Điều 127 của Luật hôn nhân và gia đình 2014; Điều 37; Điều 40; khoản 4 Điều 147; khoản 1, khoản 4 Điều 207; khoản 3 Điều 228; khoản 1 Điều 273; Điều 469; khoản 2 Điều 479 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của Chị Trần Thị Đ.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Đ được ly hôn Anh Trần Văn K.

- Về con chung: Giao con chung là cháu Trần Như Ý, sinh ngày 24/02/2019 cho Chị Trần Thị Đ được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến lúc đủ 18 tuổi, trưởng thành.

Về cấp dưỡng nuôi con: chị Đ chưa yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

Sau khi ly hôn, Anh Trần Văn K có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích mọi mặt của con, khi có lý do chính đáng hoặc có căn cứ theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của một hoặc các bên thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị Trần Thị Đ không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

Dành quyền khởi kiện liên quan đến chia tài sản chung, nợ chung cho các đương sự trong một vụ án dân sự khác khi các đương sự có yêu cầu.

- Về án phí: Chị Trần Thị Đ phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số AA/2020/0003990 ngày 14/4/2021 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An.

- Chị Trần Thị Đ có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật. Anh Trần Văn K có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày Bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày Bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

- Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 85/2021/HNGĐ-ST ngày 16/07/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:85/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;