Bản án 835/2023/DS-PT về tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy quyết định cá biệt

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 835/2023/DS-PT NGÀY 14/12/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, YÊU CẦU HỦY QUYẾT ĐỊNH CÁ BIỆT

Ngày 14 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 504/2023/TLPT-DS ngày 02 tháng 10 năm 2023 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy quyết định cá biệt”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 06/2023/DS-ST ngày 20 tháng 02 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 2748/2023/QĐ-PT ngày 31 tháng 10 năm 2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn:

1. Bà Huỳnh Thị D, sinh năm 1945 (vắng mặt);

2. Ông Lê Hồng S, sinh năm 1964 (có mặt);

3. Bà Nguyễn Thị G, sinh năm 1969 (có mặt);

Nơi cư trú: Khu phố E, Phường B, thị xã K, tỉnh Long An.

Người đại diện theo ủy quyền của bà D, ông S, bà G: Ông Nguyễn Hoàng L, sinh năm 1958 (có mặt) Địa chỉ: Số D, Đường H, Phường B, thành phố T, tỉnh Long An.

- Bị đơn: Bà Hồ Bích P, sinh năm 1960 (vắng mặt) Địa chỉ: Số A, Đường H, Khu phố A, Phường A, thị xã K, tỉnh Long An.

Người đại diện theo ủy quyền của bà P: Ông Hồ Hoàng V, sinh năm 1981 (có mặt) Địa chỉ: Số I Đường số B, cư xá B, Phường H, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Phú T, sinh năm 1948 (vắng mặt);

2. Bà Hồ Ngọc L1, sinh năm: 1954 (vắng mặt) Người đại diện theo ủy quyền: ông Nguyễn Phú T (vắng mặt);

Cùng địa chỉ: Số B, Đường B, Khu phố A, Phường A, thị xã K, tỉnh Long An.

3. Ông Lê Hồng H, sinh năm 1932 Địa chỉ: Khu phố E, Phường B, thị xã K, tỉnh Long An.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Hồng H1, sinh năm 1977 (có mặt) Địa chỉ: Khu phố 5, Phường 2, thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An

4. Bà Lâm Thị L2, sinh năm 1945 (vắng mặt) Địa chỉ: Số B, Đường P, Phường F, Quận H, thành phố Hồ Chí Minh.

5. Ủy ban nhân dân Phường B, thị xã K, tỉnh Long An.

Địa chỉ: Phường B, thị xã K, tỉnh Long An;

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Thành T1 – Công chức đia chính (có mặt).

6. Ủy ban nhân dân thị xã K, tỉnh Long An; Địa chỉ: Phường A, thị xã K, tỉnh Long An.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông La Văn D1 – Phó chủ tịch (có mặt);

7. Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã K, tỉnh Long An; Địa chỉ: Phường A, thị xã K, tỉnh Long An.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông La Văn D1 – Phó chủ tịch (có mặt).

8. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh L Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp: Ông Nguyễn Vũ T2 – Chuyên viên văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh L (có mặt).

- Người kháng cáo: Bà Hồ Bích P (có ông Đặng Huỳnh L3 và ông Phạm Văn V1 là đại diện theo ủy quyền).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, đại diện ủy quyền của nguyên đơn, ông Nguyễn Hoàng L trình bày:

Năm 1983, bà Huỳnh Thị D và ông Lê Hồng H có nhận chuyển nhượng một phần đất gồm nhà và tài sản gắn liền trên đất của bà Lâm Thị L2 theo hợp đồng viết tay có chiều ngang 49m, chiều dài 189m, tổng diện tích 9.261m2. Đến năm 1997, bà D đăng ký kê khai phần đất đã mua từ bà L2 và được Ủy ban nhân dân huyện M cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (cấp đại trà) số 00025.QSDĐ/1201-LA ngày 04/10/1997 đối với các thửa đất gồm: Thửa đất số 216, có diện tích 5.557m2, loại đất Lúa; thửa đất số 269, diện tích 675m2, loại đất ao (hồ); thửa đất số 270, diện tích 1.700m2, loại đất Thổ và thửa đất số 271, diện tích 406m2, loại đất Ao (hồ); các thửa đất nói trên có tổng diện tích là 8.338m2, cùng thuộc tờ bản đồ số 3, tọa lạc tại thị trấn M, huyện M, tỉnh Long An (nay là Khu phố E, Phường B, thị xã K, tỉnh Long An). Như vậy, tổng diện tích đất mà bà D và ông H được cấp không đủ diện tích và thực tế sử dụng đất mà bà L2 đã bán cho bà D. Đến năm 2015, bà D và ông H phát hiện còn một phần đất mà gia đình bà D đang sử dụng (nguồn gốc mua từ bà L2 vào năm 1983) nhưng chưa được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên đã làm đơn đề nghị cấp bổ sung. Ngày 04/5/2015, bà D, ông H được Ủy ban nhân dân thị xã K cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY875268 đối với thửa đất số 3384, tờ bản đồ số 3, diện tích 925,7m2, loại đất nuôi trồng thủy sản, tọa lạc tại Phường B, thị xã K, tỉnh Long An, khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có đo đạc và ký giáp ranh thửa đất. Ngày 22/11/2019, Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai tại thị xã K có Biên bản về việc đính chính giấy chứng nhận của bà D và ông H điều chỉnh từ thửa đất số 3384 thành thửa đất số 3484.

Năm 2007, bà D làm thủ tục tặng cho con là ông Lê Hồng S và bà Nguyễn Thị G các thửa đất gồm: Thửa đất số 2071, diện tích 113m2, loại đất Lúa (tách từ thửa đất số 216); thửa đất số 2072, diện tích 104m2, loại đất NTS (tách từ thửa đất số 269) và thửa đất số 2073, diện tích 131m2 (tách từ thửa đất số 270); tổng diện tích là 348m2, cùng tờ bản đồ số 3. Ngày 28/6/2007, ông S và bà G đã được Ủy ban nhân dân thị xã K cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK014356, AK014357 và số AK014358 đối với các thửa đất số 2071, 2072, 2073 nói trên, khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có đo đạc và ký giáp ranh các thửa đất.

Bà Hồ Bích P là chủ sử dụng các thửa đất số 265, 266 và thửa đất số 268 cùng tờ bản đồ số 3. Giữa các thửa đất của bà D, ông S và bà G với các thửa đất của bà P là đường thoát nước được ký hiệu là DTL, do Ủy ban nhân dân phường B, thị xã K quản lý.

Trên phần đất của bà D, từ năm 1983 đến nay bà D trồng cây bạch đàn và trồng tràm, sử dụng liên tục ổn định. Năm 2019, bà Hồ Bích P xây dựng bờ rào bằng gạch hình dạng chữ L trên phần đất của bà D nên hai bên xảy ra tranh chấp. Nay nguyên đơn bà D khởi kiện yêu cầu bà Hồ Bích P tháo dỡ bờ rào bằng gạch hình dạng chữ L (kích thước dài 11,9m, ngang 2,2m) tại vị trí số 02 để trả lại phần đất tranh chấp có diện tích 279m2 thuộc một phần thửa đất số 3484, tờ bản đồ số 3, loại đất NTS, tọa lạc tại phường B, thị xã K, tỉnh Long An mà bà Huỳnh Thị D và ông Lê Hồng H được Ủy ban nhân dân thị xã K cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 04/5/2015.

Đối với các thửa đất số 2071, 2072, 2073, sau khi được tặng cho, ông S, bà G xây cất một căn nhà tạm trên một phần các thửa đất trên để ở. Năm 2019, khi bà D và bà P xảy ra tranh chấp, vợ chồng ông S, bà G kiểm tra lại ranh đất thì phát hiện trước đó bà P làm hàng rào tạm bằng lưới B40 và xây nhà tạm để xe lấn qua 03 thửa đất của vợ chồng ông S, bà G, cụ thể: Lấn qua thửa đất số 2071 đo đạc diện tích thực tế 2m2, lấn qua thửa đất số 2072 đo đạc diện tích thực tế 12m2 và lấn qua thửa đất số 2073 đo đạc diện tích thực tế 49m2, tổng cộng phần đất bị lấn chiếm là 63m2. Nay nguyên đơn ông S, bà G khởi kiện yêu cầu bà Hồ Bích P tháo dở hàng rào tạm bằng lưới B40 và tháo dỡ một phần căn nhà để xe diện tích 23m2 để trả lại cho ông S, bà G phần đất tranh chấp có tổng diện tích 63m2, thuộc một phần các thửa đất số 2071, 2072 và 2073, cùng tờ bản đồ số 3, tọa lạc tại phường B, thị xã K, tỉnh Long An mà ông S, bà G được Ủy ban nhân dân huyện M (nay là thị xã K) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 28/6/2007.

Riêng đối với các phần đất tranh chấp: Phần đất đo đạc diện tích thực tế 12m2 thuộc một phần thửa 266; Phần đất đo đạc diện tích thực tế 4m2, loại đất DGT và phần đất đo đạc diện tích thực tế lần lượt là 18m2, 141m2 cùng loại đất DTL. Bà D, ông S và bà G xin rút lại yêu cầu tranh chấp đối với phần đất tại các vị trí này.

Ngoài ra, trong quá trình tố tụng trước đây bà Huỳnh Thị D có yêu cầu bị đơn bà Hồ Bích P bồi thường thiệt hại tài sản số tiền 50.200.000 đồng. Tuy nhiên, bà D đã rút lại yêu cầu trên trước khi Tòa án tiến hành các thủ tục thụ lý. Hiện tại, bà D cũng không yêu cầu bị đơn bồi thường khoản tiền nào khác.

Riêng đối với yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Phú T, yêu cầu bà Huỳnh Thị D trả lại phần đất tranh chấp diện tích đo đạc 58m2, bà D không đồng ý vì phần đất trên thuộc một phần thửa đất số 3484, tờ bản đồ số 3 mà bà D, ông H đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và từ trước đến nay bà D là người trực tiếp, quản lý sử dụng. Còn đối với yêu cầu mở lại đường thoát nước tại vị trí thửa đất số 3484, tờ bản đồ số 3, vì phần đất trên thuộc quyền sử dụng của bà D, ông H và cũng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên không đồng ý theo yêu cầu của ông T.

Đại diện theo ủy quyền của bị đơn, ông Đặng Huỳnh L3, trình bày: Năm 1997, bà P mua của bà Lâm Thị L2 phần đất có diện tích 5,8 công tằm lớn. Hai bên làm hợp đồng tay nhưng đã thất lạc. Ngày 05/8/2003, bà P được Ủy ban nhân dân huyện M cấp giấy nhận quyền sử dụng đất đối với các thửa đất: Thửa đất số 265, diện tích 3554m2, loại đất Lúa; thửa đất số 266, diện tích 1232m2, loại đất Lúa và thửa đất số 268, diện tích 1055m2, loại đất T, tất cả cùng tờ bản đồ số 3, tọa lạc tại thị trấn M, huyện M, tỉnh Long An. Khi cấp giấy thực hiện theo thủ tục cấp đại trà, không đo đạc thực tế, cắm mốc giới từng thửa đất. Tại thời điểm bà P mua đất của bà L2 thì phía nguyên đơn bà D đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất mua của bà L2 trước đó, gồm các thửa đất số 216, 269, 270 và thửa đất số 271. Giữa các thửa đất số 265, 266 và thửa đất số 268 cùng tờ bản đồ số 3 của bà P với các thửa đất số 216, 267, 270 và thửa đất số 271, cùng tờ bản đồ số 3 của bà Huỳnh Thị D là con kênh thủy lợi nội đồng Khu vực 5 của Nhà nước, hiện nay con kênh này đã bị phía nguyên đơn lấp vào tháng 5 năm 2019.

Nay phía nguyên đơn bà D, ông S và bà G khởi kiện với yêu cầu như trên, bà P không đồng ý với những lý do như sau:

Theo bản đồ địa chính năm 2006 được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L duyệt ngày 14/11/2006, do Văn phòng đăng ký đất đai thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L sao lục số 65/SL-VPĐKĐĐ ngày 18/12/2019 thể hiện giữa phần đất của bà D và bà P là đường thoát nước nội đồng ra sông V. Do đó, bà P không có lấn đất như lời các nguyên đơn trình bày.

Theo bản đồ địa chính năm 2006 được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L duyệt ngày 14/11/2006, do Văn phòng đăng ký đất đai thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L sao lục số 65/SL-VPĐKĐĐ ngày 18/12/2019 thể hiện ba thửa số 2071, 2072, 2073 cùng thuộc tờ bản đồ số 3 nằm ở vị trí khác chứ không nằm ở vị trí đất của nguyên đơn bà G, ông S trình bày. Thửa đất số 2072, tờ bản đồ số 3 hiện do ông Châu Văn H2 đứng tên chủ sử dụng đất. Thửa đất số 2073, tờ bản đồ số 3 hiện do ông Nguyễn Bá R đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngoài ra, theo hồ sơ địa chính thể hiện thửa số 2071, tờ bản đồ số 3 là thuộc quyền sử dụng đất của chủ sở hữu khác.

Theo sổ mục kê đất đai ngày 30/3/2016 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L, do Văn phòng đăng ký đất đai thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L sao lục số 65/SL-VPĐKĐĐ ngày 18/12/2019 thì các thửa đất số 269 và thửa đất số 270 của bà Huỳnh Thị D không thể hiện có việc tách thửa đất như các nguyên đơn trình bày.

Ngoài ra, bà Hồ Bích P yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết:

1. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY 875268 đối với thửa đất số 3384, tờ bản đồ số 3, loại đất NTS, tại phường B, thị xã K, tỉnh Long An do Ủy ban nhân dân thị xã K cấp cho bà Huỳnh Thị D và ông Lê Hồng H ngày 04/5/2015;

2. Yêu cầu hủy các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 014356 đối với thửa đất số 2071, loại đất LUC, diện tích 113m2; số AK 014357 đối với thửa đất số 2072, loại đất NTS, diện tích 104m2 và số AK 014358 đối với thửa đất số 2073, loại đất ONT, diện tích 131m2; cùng thuộc tờ bản đồ số 3, toạ lạc tại phường B, thị xã K, tỉnh Long An do Ủy ban nhân dân thị xã K cấp cho ông Lê Hồng S và bà Nguyễn Thị G ngày 28/6/2007.

Căn cứ bà P yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất số 3384, 2071, 2072 và 2073, cùng tờ bản đồ số 3, tọa lại tại Khu phố E, phường B, thị xã K, tỉnh Long An dựa trên tờ bản đồ địa chính năm 2006 và 2016 của Trung tâm đo đạc quan trắc được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L trích lục thì thửa đất của bà P không giáp ranh các thửa đất này nên xác định đây là 04 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không có thực mà cấp khống. Ông S, bà G cho rằng đất của bà D, ông Hà t cho nhưng đối chiếu với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp ngày 04/10/1997 đến nay đất bà D không tách thửa, không có biến động. Ngoài ra, các thửa đất số 3384, 2071, 2072 và 2073, cùng tờ bản đồ số 3, tọa lại tại Khu phố E, phường B, thị xã K, tỉnh Long An đã được cấp cho các cá nhân khác cụ thể: Thửa đất số 3384, tờ bản đồ số 3, đã được cấp cho bà Lâm Thị Minh H3 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BP 552014 ngày 29/6/2017 của Ủy ban nhân dân thị xã K; Thửa đất số 2073, tờ bản đồ số 3, đã được cấp cho bà Nguyễn Bá R theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BV 768187 ngày 22/8/2014 của Ủy ban nhân dân thị xã K và Thửa đất số 2072, tờ bản đồ số 3, theo trích lục bản đồ địa chính ngày 07/6/2013 Văn Phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Phòng Tài nguyên và Môi trường thị xã K thì thuộc quyền sử dụng của ông Châu Văn H2.

Riêng đối với yêu cầu hủy Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã K và Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai của Chủ tịch UBND tỉnh L, vì khiếu nại của bà P đang được Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật nên bà P rút lại yêu cầu này.

Ngoài ra, trong quá trình tố tụng trước đây bà Hồ Bích P có yêu cầu các nguyên đơn bồi thường thiệt hại tài sản số tiền 300.000.000 đồng. Tuy nhiên, bà P đã rút lại yêu cầu trên nên trước khi Tòa án tiến hành các thủ tục thụ lý. Hiện tại, bà P cũng không yêu cầu các nguyên đơn bồi thường khoản tiền nào khác.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Phú T trình bày: Năm 2000, ông có nhận chuyển nhượng một phần đất của ông Lâm Văn T3. Cùng năm 2000, ông đăng ký kê khai phần đất trên và được Ủy ban nhân dân huyện M (nay là Ủy ban nhân dân thị xã K) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ 00198.QSDĐ/LA ngày 28/7/2000 đối với các thửa đất gồm: Thửa số 217 có diện tích 1.726m2, loại đất Hg/b và thửa số 218 có diện tích 6.160m2, loại đất Lúa; các thửa đất nói trên có tổng diện tích là 7.886m2, cùng thuộc tờ bản đồ số 3, tọa lạc tại thị trấn M, huyện M, tỉnh Long An (Khu phố E, Phường B, thị xã K, tỉnh Long An), khi kê khai cấp giấy phần đất ông nhận chuyển nhượng thì không có đo đạc, cắm mốc giới giữa các thửa đất. Theo như trích lục bản đồ địa chính phía Nam của thửa số 217 và 218 của ông là giáp với K nội đồng số 9028 do Nhà nước quản lý. Con kênh nội đồng trên nằm giữa hai thửa số 217 và 218 của ông và thửa số 216 do ông Lê Hồng H và bà Huỳnh Thị D đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Đầu năm 2020, ông phát hiện ông H và bà D san lấp kênh nội đồng và xây rào kiên cố trên phần đất của ông mà không có thỏa thuận gì khiến cho ông không còn đường đi thăm ruộng và làm ảnh hưởng đến độ mầu mỡ của thửa đất ruộng số 217, 218 của ông.

Nay ông yêu cầu bà D và ông H tháo dỡ hàng rào đã xây và ống nước phi 330 nhựa P1 để trả lại cho ông T phần đất có diện tích 58m2 mà ông T cho rằng thuộc hai thửa số 217, 218 của ông và yêu cầu ông H, bà D trả hiện trạng đường thoát nước của Nhà nước theo đúng hiện trạng thực tế trước đây tại vị trí thửa đất số 3484, tờ bản đồ số 3 theo như bản đồ quản lý của Nhà nước.

Bà Hồ Ngọc L1 là vợ của ông, thống nhất với lời trình bày của ông, không có ý kiến hay yêu cầu gì khác.

Đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Hồng H, ông Lê Hồng H1 trình bày: Ông Lê Hồng H là chồng của bà D, thống nhất với lời trình bày và yêu cầu của bà D, không yêu cầu bổ sung.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lâm Thị L2 xin vắng mặt tại phiên tòa, tại Giấy xác nhận ngày 28/7/2022 trình bày: Trước đây bà có phần đất ở khóm E, thị trấn M, huyện M, tỉnh Long An (nay là khu phố E, phường B, thị xã K, tỉnh Long An). Năm 1983, bà bán cho ông Lê Hồng H một phần đất tọa lạc tại địa chỉ trên gồm 1 cái nền nhà, đất sản xuất và mương, líp xung quanh. Bà và ông H, bà D có làm giấy tay mua bán và xác nhận của chính quyền thị trấn. Khi ông Lê Hồng H mua, phần bờ bao xung quanh ông H trồng bạch đàn, trồng tràm. Đến khoảng năm 2004, bà bán phần đất còn lại cho bà P, khi tiến hành bàn giao đất, gia đình bà có xác định ranh giới với gia đình ông Lê Hồng H và chủ mới là phần dưới chân của bờ líp tràm, giáp ranh với phần đất của gia đình bà còn lại đang làm thủ tục bán cho bà P. Từ khi gia đình bà bán cho ông Lê Hồng H, phần bờ líp đó thuộc về hộ gia đình ông Lê Hồng H, giữa 2 gia đình không có bất cứ tranh chấp gì. Bà xin cam kết nội dung bà xác nhận trên là hoàn toàn đúng sự thật và chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân phường B, thị xã K, tỉnh Long An tại Văn bản số 44/UBND ngày 13/01/2023 trình bày:

Kênh cặp Quốc lộ F trước đây do chính quyền địa phương và người dân chung tay đào để vừa lấy đất san lấp Quốc lộ F, vừa làm kênh công cộng để dẫn nước từ kênh C 1 vào bên trong phục vụ cho người dân sản xuất nông nghiệp; đây là đất kênh rạch sử dụng vào mục đích công cộng, không thuộc quyền sử dụng của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào; do đó, việc bà P tự ý cất nhà tạm trên phần đất 18m2 khi chưa có sự đồng ý của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là vi phạm pháp luật về đất đai.

Phần diện tích 33m2 và 141m2 thuộc phạm vi đường nước giữa thửa đất số 2073 (ông S, bà G) với thửa đất số 268 (bà Bích P), đường nước này trước đây do bà Lâm Thị L2 đào và san lấp trên phần đất của mình để dẫn nước từ kênh cặp Quốc lộ F vào bên trong; đến năm 1983, bà L2 bán đất lại cho ông Lê Hồng H (chồng bà D) bao gồm cả “mương líp xung quanh” là 03 đường nước và bờ đất hiện hữu; 03 đường nước và bờ đất này trên bản đồ địa chính thể hiện là “đất thủy lợi”, nhưng không phải là đường nước phục vụ cho mục đích công cộng, mà là của bà L2 trước đây và đã bán lại cho ông H vào năm 1983 và ông H đã sử dụng từ đó cho đến khi xảy ra tranh chấp với bà P.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân thị xã K tại Văn bản số 1986/UBND-TNMT ngày 30/6/2020 trình bày:

Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà D thửa đất số 3384 (nay đính chính thành thửa đất số 3484), cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông S và bà G các thửa đất số 2071, 2072, 2073 là đúng quy trình, đúng đối tượng.

Thửa 3484 có nguồn gốc của bà Lâm Thị L2; ngày 10/5/1983, ông Lê Hồng H (chồng bà D) có đơn xin sang nhượng đất với bà L2 được Ủy ban nhân dân thị trấn M xác nhận ngày 20/5/1983, nội dung sang nhượng như sau: Một cái gò nhà có mương líp chung quanh và có đất khai hoang canh tác. Chiều ngang 49m, chiều dài 189m từ mí mương lộ 29 (nay là Quốc lộ F) trở ra sông V.

Thửa đất số 2071, 2072 và 2073 là những số thửa mới được tách ra từ các thửa đất số 216, 269 và 270; thửa đất số 216, 269 và 270 đã được Ủy ban nhân dân huyện M cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà D vào ngày 04/10/1997; đến năm 2007, ông S và bà G được bà D cho lại các thửa đất số 2071, 2072 và 2073.

Khi cấp giấy chứng nhận thửa đất số 2071, 2072 và 2073 cho ông S và bà Giàu c tiến hành đo đạc và xác định ranh giới với các thửa đất liền kề (trong đó có bà Bích P).

Khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 3484 cho bà D có tiến hành đo đạc nhưng chỉ có xác định ranh giới với các hộ khác, không có xác định ranh giới với bà Bích P với lý do: Phần đất cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà D tiếp giáp với đất nhà nước, không tiếp giáp với đất bà Bích P.

Thửa đất số 2071, 2072 và 2073 trước đây là đất của bà D cho lại ông S và bà G vào năm 2007 không phải là con kênh để người dân sử dụng vào mục đích nông nghiệp.

Thửa đất số 3484 trước đây là một đường nước nhỏ chiều ngang khoảng 01 mét và một bờ tràm chiều ngang khoảng 03 mét do gia đình bà D trồng, không phải là con kênh để người dân sử dụng vào mục đích nông nghiệp. Hiện nay, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 3484, 2071, 2072 và 2073 không làm ảnh hưởng đến việc kênh thoát nước để người dân sản xuất đất nông nghiệp.

Tại Văn bản số 129/UBND-TNMT ngày 16/01/2023, Ủy ban nhân dân thị xã K trình bày: Năm 1997, thực hiện chủ trương cấp đất đồng loạt cho người dân, do chụp không ảnh nên việc cấp giấy cho người dân theo bản đồ không ảnh, mà bản đồ không ảnh thì thể hiện theo hiện trạng, không xác minh thực tế nên đã thống kê các đường nước dù là của chung hay riêng đều là đất “Thủy lợi” nên chừa lại, chưa xem xét cấp giấy chứng nhận. Cụ thể, theo Mãnh trích đo địa chính số 4-2021 ngày 15/01/2021 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai tại thị xã thì trong đó có 03 phần diện tích mà bà P đang sử dụng thực tế gồm:

Phần diện tích 18m2 thuộc phạm vi kênh cặp Quốc lộ F: Kênh cặp Quốc lộ F trước đây do chính quyền địa phương và người dân chung tay đào để vừa lấy đất san lấp Quốc lộ F, vừa làm kênh công cộng để dẫn nước từ kênh C 1 vào bên trong phục vụ cho người dân sản xuất nông nghiệp; đây là đất kênh rạch sử dụng vào mục đích công cộng, không thuộc quyền sử dụng của bà P.

Phần diện tích 33m2 và 141m2 thuộc phạm vi đường nước giữa thửa 2073 (ông S, bà G) với thửa đất số 268 (bà Bích P): Hai phần diện tích này nằm trong đường nước trước đây do bà Lâm Thị L2 đào trên phần đất của mình để dẫn nước từ kênh cặp Quốc lộ F vào bên trong, đường “thủy lợi” này là đường nước sử dụng riêng của hộ gia đình.

Quan điểm của Ủy ban nhân dân thị xã: Phần đất có diện tích 18m2 nêu trên là kênh Quốc lộ F, thuộc kênh công cộng do Nhà nước quản lý, gắn với hành lang lộ giới nên không giao cho cá nhân nào có quyền sử dụng. Việc tạm chiếm sử dụng của bà P là sai quy định.

Xác định phần diện tích 33m2 và 141m2 không phải là đất Nhà nước quản lý mà có nguồn gốc của bà L2 trước đây đào dẫn nước vào sản xuất và năm 1983 bán một phần cho ông H và năm 2003 bán phần còn lại cho bà P. Đây là đường nước “Thủy lợi” dùng riêng của hộ gia đình. Đối với phần đất này, UBND thị xã sẽ xem xét nguồn gốc và quá trình sử dụng đất của các bên để công nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

Việc cấp giấy chứng nhận cho bà D và ông H thửa đất số 3484, tờ bản đồ số 3, diện tích 925,7m2, loại đất nuôi trồng thủy sản đã được thực hiện đúng pháp luật, trên cơ sở Giấy sang nhượng giữa bà L2 và ông H vào ngày 10/5/1983 được Ủy ban nhân dân thị trấn M xác nhận ngày 20/5/1983. Sau khi cấp giấy chứng nhận cho bà D và ông H, bà P đã làm đơn khiếu nại và đã được Chủ tịch UBND thị xã giải quyết bằng Quyết định số 2446/QĐ-UBND ngày 09/10/2019 và Chủ tịch UBND tỉnh giải quyết bằng Quyết định số 379/QĐ- UBND ngày 07/02/2020; qua đó, đã bác đơn của bà P.

Việc cấp giấy chứng nhận cho ông S và bà G thửa 2071, 2072, 2073 là đúng pháp luật, bởi vì những thửa đất này ông S và bà G được bà D cho tặng lại hợp pháp (bà D đã được cấp giấy chứng nhận những thửa này vào năm 1997) và hồ sơ đã được thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã K: Tại Văn bản số 3017/UBND-TNMT ngày 01/10/2020, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã K có ý kiến khẳng định việc ban hành quyết định số 2446/QĐ-UBND ngày 09/10/2019 là đúng quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh L: Tại Văn bản số 4948/UBND-NCTCD ngày 03/6/2022, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh L khẳng định Quyết định số 379/QĐ-UBND ngày 07/02/2020 của Chủ tịch Ủy ban nhân tỉnh về việt giải quyết khiếu nại lần hai của bà Hồ Bích P là đúng quy định của pháp luật và có giá trị thi hành.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 06/2023/DS-ST ngày 20 tháng 02 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã quyết định như sau:

1. Đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Huỳnh Thị D, ông Lê Hồng S và bà Nguyễn Thị G về việc tranh chấp quyền sử dụng đất với bà Hồ Bích P đối với các phần đất, cụ thể: Phần đất đo đạc diện tích thực tế 12m2 thuộc một phần thửa đất số 266; Phần đất đo đạc diện tích thực tế 4m2, loại đất DGT và các phần đất đo đạc diện tích thực tế lần lượt là 18m2, 141m2 cùng loại đất DTL, tất cả thuộc tờ bản đồ số 3, đất tọa lạc tại Khu phố E, Phường B, thị xã K, tỉnh Long An.

2. Đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu của bị đơn bà Hồ Bích P về việc yêu cầu Tòa án hủy Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu số 2446/QĐ-UBND ngày 09/10/2019 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã K, tỉnh Long An và Quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 số 379/QĐ-UBND ngày 07/02/2020 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh L.

3. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng đất của bà Huỳnh Thị D với bà Hồ Bích P đối với phần đất đo đạc diện tích thực tế 279m2, loại đất NTS, thuộc một phần thửa 3484, tờ bản đồ số 3, đất tọa lạc tại Khu phố E, Phường B, thị xã K, tỉnh Long An.

Buộc bà Hồ Bích P phải tháo dỡ bờ rào hình dạng chữ L kết cấu: Tường xây gạch dày 20cm, cao 0,7m, chiều dài lần lược: 11,9m và 2,2m tại vị trí số 02 để trả lại cho bà Huỳnh Thị D phần đất đo đạc diện tích thực tế 279m2, loại đất NTS, thuộc một phần thửa 3484, tờ bản đồ số 3, đất tọa lạc tại Khu phố E, Phường B, thị xã K, tỉnh Long An.

Các bên đương sự có trách nhiệm liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để điều chỉnh biến động hoặc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

4. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng đất của ông Lê Hồng S, bà Nguyễn Thị G với bà Hồ Bích P đối với các phần đất: Phần đất đo đạc diện tích thực tế 2m2 thuộc một phần thửa 2071, loại đất LUC; Phần đất đo đạc diện tích thực tế 12m2 thuộc một phần thửa 2072, loại đất NTS và phần đất đo đạc diện tích thực tế 49m2 thuộc một phần thửa 2073, loại đất ODT, tất cả đất thuộc tờ bản đồ số 3, tọa lạc tại Khu phố E, Phường B, thị xã K, tỉnh Long An.

Buộc bà Hồ Bích P tháo dỡ hàng rào dài 18,4m, kết cấu: Cột thép vuông 5x5 (cm), tường rào xây gạch dày 10cm, phía trên gắn lưới B40 cao 2,5m và tháo dỡ một phần căn nhà để xe diện tích 23m2 kết cấu: Nền xi măng, vách tole sóng vuông, cột thép vì kèo thép gia công, mái lộp tole sóng vuông, để trả lại cho ông Lê Hồng S, bà Nguyễn Thị G các phần đất cụ thể: Phần đất đo đạc diện tích thực tế 2m2 thuộc một phần thửa 2071, loại đất LUC; Phần đất đo đạc diện tích thực tế 12m2 thuộc một phần thửa 2072, loại đất NTS và Phần đất đo đạc diện tích thực tế 49m2 thuộc một phần thửa 2073, loại đất ODT, tất cả đất thuộc tờ bản đồ số 3, tọa lạc tại Khu phố E, Phường B, thị xã K, tỉnh Long An.

Các bên đương sự có trách nhiệm liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để điều chỉnh biến động hoặc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

5. Không chấp nhận yêu cầu của bà Hồ Bích P yêu cầu Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY 875268 đối với thửa đất số 3484 (đính chính từ thửa đất số 3384), tờ bản đồ số 3, loại đất NTS, tại Phường B, thị xã K, tỉnh Long An do Ủy ban nhân dân thị xã K cấp cho bà Huỳnh Thị D và ông Lê Hồng H ngày 04/5/2015.

6. Không chấp nhận yêu cầu của bà Hồ Bích P yêu cầu Tòa án hủy các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 014356 đối với thửa đất số 2071, loại đất LUC, diện tích 113m2; số AK 014357 đối với thửa đất số 2072, loại đất NTS, diện tích 104m2 và số AK 014358 đối với thửa đất số 2073, loại đất ONT, diện tích 131m2; cùng thuộc tờ bản đồ số 3, đất tọa lạc tại Phường B, thị xã K, tỉnh Long An do Ủy ban nhân dân thị xã K cấp cho ông Lê Hồng S và bà Nguyễn Thị G ngày 28/6/2007.

7. Không chấp nhận yêu cầu tranh chấp quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Phú T đối với ông Lê Hồng H, bà Huỳnh Thị D đối với phần đất đo đạc diện tích thực tế 58m2 thuộc một phần thửa 3484, loại đất NTS, tờ bản đồ số 3, đất tọa lạc tại Khu phố E, Phường B, thị xã K, tỉnh Long An.

Ông Lê Hồng H và bà Huỳnh Thị D được tiếp tục sử dụng phần đất đo đạc diện tích thực tế 58m2 thuộc một phần thửa 3484, loại đất NTS, tờ bản đồ số 3, đất tọa lạc tại Khu phố E, Phường B, thị xã K, tỉnh Long An.

Các bên đương sự có trách nhiệm liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để điều chỉnh biến động hoặc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

8. Không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Phú T yêu cầu bà Huỳnh Thị D, ông Lê Hồng H khôi phục lại kênh thoát nước của Nhà nước tại vị trí thửa đất số 3484, tờ bản đồ số 3, diện tích 925,7m2, đo đạc thực tế 847m2, đất toạ lạc tại Phường B, thị xã K, tỉnh Long An.

9. Tất cả các phần đất được thể hiện tại Mảnh trích đo địa chính số 4- 2021 ngày 15/01/2021 của Chi nhánh Văn phòng Đ tại thị xã K và Mảnh trích đo địa chính số 104-2022 ngày 21/10/2022 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai tại thị xã K.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, vào các ngày 28/02/2023 và 16/3/2023 bà Hồ Bích P (có ông Đặng Huỳnh L3 và ông Phạm Văn V1 là đại diện theo ủy quyền) kháng cáo bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn bà Hồ Bích P (có ông Hồ Hoàng V là người đại diện theo ủy quyền) vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà P về việc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà D, ông S và bà Giàu có liên quan đến các phần đất tranh chấp. Nguyên đơn gồm các ông, bà Huỳnh Thị D, Lê Hồng S, Nguyễn Thị G (có ông Nguyễn Hoàng L là đại diện theo ủy quyền) đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Trong phần tranh luận:

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày: Đối với các thửa 2071, 2072, 2073 thì hiện nay trên bản đồ thì các phần đất này không tiếp giáp với đất nhà bà P, do những người khác đứng tên quyền sử dụng. Nguồn gốc phần đất mua của bà L2, bà L2 đã xác nhận phần đất đó có hàng cây.

Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: Phần đất này chung một thửa do bà L2 bán cho bà D, bà P. Phần đất này gia đình ông H, bà D sử dụng từ năm 1983 đến năm 2017 thì mới phát sinh tranh chấp với bà P, khi bà P nhận chuyển nhượng phần đất năm 2003 thì bờ cây gia đình ông H, bà D vẫn sử dụng. Năm 2015-2016 bà P yêu cầu gia đình ông chặt bỏ hàng cây do che qua phần đất của bà P, trong hồ sơ có tài liệu của người làm chứng thể hiện có mua hàng cây tràm này.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn giữ nguyên lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh nêu quan điểm giải quyết vụ án:

- Về tố tụng: Tòa án cấp phúc thẩm đã thực hiện đúng thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Nội dung trong đơn xin sang nhượng hoa lợi giữa bà L2 với ông H vào năm 1983, phù hợp với lời trình bày của bà L2 tại giấy xác nhận năm 2022. Lý do Uỷ ban nhân dân không xác định ranh giới với bà P khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà D vì ranh giới này là mương nước thủy lợi, theo xác nhận của Uỷ ban nhân dân thì mương nước do bà L2 tự đào không phải là mương nước công cộng. Theo văn bản của Ủy ban nhân dân thị xã K xác định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà D đối với 3484 là đúng quy định pháp luật. Bà P có khiếu nại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cấp cho bà D, đã được Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã K và chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh L giải quyết khiếu nại. Tại phiên tòa sơ thẩm và biên bản lấy lời khai, bà P đồng ý lấy theo ranh địa chính. Do phần đất thửa 3484 thuộc quyền sử dụng của bà D, nên yêu cầu bà P trả lại phần diện tích đất tranh chấp là có căn cứ.

Đối với thửa 2071,2072, 2073: Bà P cho rằng trong bản đồ thì 03 thửa đất này nằm ở vị trí khác, do người khác đứng tên sử dụng, nhưng tài liệu chứng cứ trong hồ sơ thể hiện việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông S, bà G là đúng quy định pháp luật. Việc chỉnh lý số thửa cho những người đứng tên sử dụng khác trùng với số thửa 2071, 2072, 2073 là do sai sót về số thửa.

Từ những phân tích trên, Bản án sơ thẩm đã xét xử là có căn cứ. Bị đơn có kháng cáo nhưng không có tài liệu chứng cứ mới, nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Đơn kháng cáo của người đại diện theo ủy quyền của bà Hồ Bích P làm trong thời hạn quy định pháp luật nên hợp lệ.

[2] Các quan hệ tranh chấp trong vụ án như sau:

- Tranh chấp giữa bà Huỳnh Thị D với bà Hồ Bích P đối với diện tích diện tích 279m2 thuộc một phần thửa đất số 3484, tờ bản đồ số 3, loại đất NTS, tọa lạc tại phường B, thị xã K, tỉnh Long An. Bà D khởi kiện yêu cầu bà P tháo dỡ bờ rào bằng gạch hình dạng chữ L (kích thước dài 11,9m, ngang 2,2m) tại vị trí số 02 để trả lại phần diện tích trên. Chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 04/5/2015 do Ủy ban nhân dân thị xã K cấp cho bà Huỳnh Thị D và ông Lê Hồng H đối với thửa đất trên. Bị đơn bà Hồ Bích P không đồng ý với yêu cầu khởi kiện, đồng thời có yêu cầu đề nghị hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất đã cấp cho bà D, ông H.

- Tranh chấp giữa ông Lê Hồng S, bà Nguyễn Thị G với bà Hồ Bích P đối với diện tích 63m2, thuộc một phần các thửa đất số 2071, 2072 và 2073, cùng tờ bản đồ số 3, tọa lạc tại phường B, thị xã K, tỉnh Long An. Ông S, bà G khởi kiện yêu cầu bà P tháo dỡ hàng rào lưới B40 và tháo dỡ một phần căn nhà để trả lại diện tích đất trên. Chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân thị xã K cấp cho ông S, bà G ngày 28/6/2007 đối với các thửa đất trên. Bị đơn bà Hồ Bích P không đồng ý với yêu cầu khởi kiện, đồng thời có yêu cầu đề nghị hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất đã cấp cho bà G, ông S.

- Tranh chấp giữa bà Huỳnh Thị D với ông Nguyễn Phú T. Ông T yêu cầu bà D, ông H tháo dỡ hàng rào kẽm gai và ống thoát nước phi 330 trả lại ông phần đất tranh chấp có diện tích 58m2 vì phần đất trên thuộc hai thửa 217 và 218 mà ông đang đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

[3] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn:

[3.1] Đối với tranh chấp giữa bà D với bà P đối với thửa 3484:

- Theo nguyên đơn trình bày: Năm 1983, bà D và ông H nhận chuyển nhượng một phần đất gồm nhà và tài sản gắn liền trên đất của bà Lâm Thị L2 theo hợp đồng viết tay có chiều ngang 49m x dài 189m, tổng diện tích 9.261m2, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 02 lần:

+Năm 1997, bà D được Ủy ban nhân dân huyện M cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (cấp đại trà) số 00025.QSDĐ/1201-LA ngày 04/10/1997 đối với các thửa đất gồm: Thửa số 216, thửa số 269, thửa số 270 và thửa số 271, có tổng diện tích là 8.338m2, cùng thuộc tờ bản đồ số 3, tọa lạc tại thị trấn M, huyện M, tỉnh Long An (nay là Quốc lộ F, Khu phố E, Phường B, thị xã K, tỉnh Long An).

+Năm 2015, bà D, ông H được Ủy ban nhân dân thị xã K cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY875268 đối với thửa số 3384, tờ bản đồ số 3, diện tích 925,7m2, loại đất nuôi trồng thủy sản, tọa lại tại Phường B, thị xã K, tỉnh Long An ngày 04/5/2015. Ngày 22/11/2019, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại thị xã K có Biên bản về việc đính chính giấy chứng nhận của bà D và ông H điều chỉnh từ thửa số 3384 thành thửa số 3484.

Xét, nội dung trình bày trên của nguyên đơn là có căn cứ, bởi phù hợp với các tài liệu chứng cứ sau:

+ Đơn xin sang nhượng hoa lợi ngày 10/5/1983 giữa bà Lâm Thị L2 với ông Lê Hồng H, cụ thể: “Tôi tên Lê Hồng H, Trưởng ban thủy lợi huyện M. Hiện cư ngụ Khu trung sơ cấp thuộc Khóm E, thị trấn M. Tôi có sang nhượng hoa lợi của chị Lâm Thị L2 một cái gò nhà có mương líp chung quanh và có đất đang khai hoang canh tác màu. Đất chiều ngang 49m hướng thị trấn giáp đất ông Bảy S1, hướng cầu Q giáp với sở đất của chị Lâm Thị L2, chiều dài 189m từ mí lộ 29 trở ra sông V (8,5 công kể cả gò nhà)….”’ +Lời trình bày của bà Lâm Thị L2 tại giấy xác nhận ngày 28/7/2022, cụ thể: “Trước đây tôi có phần đất ở khóm E, thị trấn M, tỉnh Long An (nay là khu phố E, phường B, thị xã K, tỉnh Long An. Năm 1983 tôi có bán cho ông Lê Hồng H một phần đất tọa lạc tại địa chỉ trên gồm 1 cái nền nhà, đất sản xuất và mương líp, xung quanh. Có làm giấy tay mua bán và xác nhận của chính quyền thị trấn. Khi ông Lê Hồng H mua, phần bờ bao xung quanh ông trồng bạch đàn, trồng tràm. Đến khoảng năm 2004 tôi bán phần đất còn lại cho bà P, khi tiến hành bàn giao đất, gia đình tôi có xác định ranh giới với gia đình ông Lê Hồng H và chủ mới là phần dưới chân của bờ líp tràm, giáp ranh với phần đất của gia đình tôi còn lại đang làm thủ tục bán cho bà P. Từ khi gia đình tôi bán cho ông Lê Hồng H, phần bờ líp đó thuộc về hộ gia đình ông Lê Hồng H, giữa 2 gia đình không có bất kỳ tranh chấp gì”.

+ Bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 08/01/2015 trong hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Lê Hồng H, bà Huỳnh Thị D đối với thửa đất số 3484, tờ bản đồ số 3, diện tích 925,7m2 thể hiện có chữ ký của những chủ đất giáp ranh gồm: Bà Nguyễn Thị H4, ông Nguyễn Văn L4 và ông Nguyễn Phú T. Bà Hồ Bích P không có ký giáp ranh vì giữa thửa 3484 với các thửa đất của bà P là đất thủy lợi (DTL) do Nhà nước quản lý.

Từ những căn cứ trên, có cơ sở xác định phần đất diện tích 925,7m2 thuộc thửa 3484, tờ bản đồ số 3, ông H, bà D nhận chuyển nhượng từ bà Lâm Thị L2 sau đó được Ủy ban nhân dân thị xã K cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là đúng quy định của pháp luật.

- Theo Mảnh trích đo bản đồ địa chính số 4-2021 ngày 15/01/2021 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai tại thị xã K thì phần diện tích đất tranh chấp 279m2 thuộc một phần thửa số 3484, tờ bản đồ số 3, thuộc quyền sử dụng của ông H và bà D; Giữa thửa đất số 3484 của ông H và bà D và thửa đất số 265, tờ bản đố số 3 của bà P là phần đất thủy lợi (kí hiệu là DTL). Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện theo ủy quyền của bị đơn là ông Đặng Huỳnh L3 và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị đơn cũng khẳng định giữa phần đất của bà D và phần đất của bà P là đường thoát nước do Nhà nước quản lý. Tại biên bản lấy lời khai ngày 29/5/2020, bà P trình bày: Bà P không yêu cầu đo các thửa đất liền kề của bà, bà đồng ý lấy theo ranh địa chính, phía bà D khởi kiện thì có nghĩa vụ chứng minh phần đất mình bị thiếu. Như vậy, có căn cứ xác định phần đất tranh chấp diện tích 279m2 thuộc quyền sử dụng của bà D. Theo hiện trạng thực tế trên phần đất tranh chấp trước đây bà Hồ Bích P có xây bờ tường rào hình dạng chữ L kết cấu: Tường xây gạch dày 20cm, cao 0,7m, chiều dài lần lượt: 11,9m và 2,2m. Do đó, yêu cầu khởi kiện của bà D về việc buộc bà P tháo dỡ bờ rào nêu trên để trả lại phần đất trên là có căn cứ chấp nhận.

[3.2] Đối với tranh chấp giữa ông S, bà G với bà D đối với các thửa 2071, 2072, 2073:

- Ngày 11/6/2007, bà D, ông H có ký hợp đồng tặng cho ông Lê Hồng S, bà Nguyễn Thị G 03 thửa đất, cụ thể: Thửa đất số 2071, diện tích 113m2 (tách từ thửa 216); thửa đất số 2072, diện tích 104m2 (tách từ thửa 269) và thửa đất số 2073, diện tích 131m2 (tách từ thửa 270). Ngày 28/6/2007, ông Lê Hồng S và bà Nguyễn Thị G được Ủy ban nhân dân huyện M (nay là thị xã K) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 03 thửa đất nêu trên. Khi tiến hành thủ tục tặng cho có tiến hành đo đạc các thửa đất được thể hiện tại Mảnh trích đo địa chính ngày 05/6/2007 và có lập biên bản xác nhận ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 24/5/2007 có chữ ký của các chủ sở hữu đất giáp ranh, trong đó có bà Hồ Bích P.

Bà P cho rằng theo bản đồ năm 2006 được Sở T duyệt ngày 14/11/2006, do Văn phòng đăng ký đất đai thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L sao lục số 65/SL-VPĐKĐĐ ngày 18/12/2019 thể hiện 03 thửa số 2071, 2072, 2073 cùng thuộc tờ bản đồ số 3 nằm ở vị trí khác với vị trí đất của nguyên đơn bà G, ông S (tách ra từ các thửa đất số 216, 269 và 270, tờ bản đồ số 3) nên Ủy ban nhân dân huyện M (nay là thị xã K) tỉnh Long An cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất các thửa số 2071, 2072 và 2073 cho ông S và bà G là không đúng quy định của pháp luật, cụ thể:

+ Thửa 2072, tờ bản đồ số 3 hiện do ông Châu Văn H2 đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

+Thửa 2073, tờ bản đồ số 3 hiện do ông Nguyễn Bá R đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

+ Ngoài ra, theo hồ sơ địa chính thể hiện thửa số 2071, tờ bản đồ số 3 là thuộc quyền sử dụng đất của chủ sở hữu khác chứ không phải của ông S, bà G. Do đó, việc Xét, tại văn bản số 65/BC-CNVPĐKĐĐ ngày 09/12/2022 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại thị xã K có nội dung: “Ngày 04/10/1997, bà Huỳnh Thị D được Ủy ban nhân dân huyện M cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành K 825139, số vào sổ 00025, tổng diện tích 16.331 m2 gồm các thửa đất số 269 (loại đất: NTS), 270 (loại đất: ODT), 216 (loại đất: LUC), 271 (loại đất: NTS), 702 (loại đất: LUC) và thửa 703 (loại đất: LUC), tờ bản đồ số 3, đất tọa lạc tại thị trấn M (nay là phường B), thị xã K.

Năm 2007, bà Huỳnh Thị D lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho ông Lê Hồng S và bà Nguyễn Thị G với tổng diện tích 348 m2, thửa đất số 2071 (tách ra từ thửa 216), thửa 2072 (tách ra từ thửa 269), thửa 2073 (tách ra từ thửa 270), tờ bản đồ số 3 (theo bản trích đo bản đồ địa chính ngày 05/6/2007 của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện M); ông Lê Hồng S và bà Nguyễn Thị G được Ủy ban nhân dân huyện M cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 28/6/2007 (03 giấy: Số phát hành AK 014356, số vào sổ H 007769, thửa 2071; số phát hành AK 014357, số vào sổ H 00770, thửa 2072; số phát hành AK 014358, số vào số H 00771, thửa 2073).

Ngày 04/10/1997, bà Trần Thị N được Ủy ban nhân dân huyện M cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ 00015, tổng diện tích 13.191m2 gồm 05 thửa đất, trong đó có thửa đất số 1118, tờ bản đồ số 3, đất tọa lạc tại thị trấn M (nay là phường B), thị xã K.

Ngày 04/10/1997, ông Châu Văn H2 được Ủy ban nhân dân huyện M cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ 00448, tổng diện tích 35.879 m2 gồm 07 thửa đất, trong đó có thửa đất số 1116, tờ bản đồ số 3, đất tọa lạc tại thị trấn M (nay là phường B), thị xã K.

Ngày 04/10/1997, ông Nguyễn Bá R được Ủy ban nhân dân huyện M cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ 00282, tổng diện tích 11.348 m2 gồm 06 thửa đất, trong đó có thửa đất số 1281, tờ bản đồ số 3, đất tọa lạc tại thị trấn M (nay là Phường B), thị xã K.

Sau khi Nhà nước thi công kênh hậu Quốc lộ F, thì phần đất của 03 hộ dân trên dính vào công trình, ngoài việc giảm diện tích do thực hiện công trình, phần đất của các hộ dân có phát sinh thêm thửa đất mới. Theo đó, đơn vị tư vấn chỉnh lý biến động đã chỉnh lý và cho số thửa trùng vào 03 thửa đất đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Lê Hồng S và bà Nguyễn Thị G năm 2007. Cụ thể như sau:

- Năm 2009, bà Trần Thị N đăng ký biến động và được chỉnh lý biến động giảm diện tích thửa đất số 1118, tờ bản đồ số 3 và tách thêm thửa mới là 2071.

- Năm 2013, ông Châu Văn H2 đăng ký biến động và được chỉnh lý biến động giảm diện tích thửa đất số 1116, tờ bản đồ số 3 và tách thêm thửa mới là 2072, sau đó chuyển nhượng cho bà Lê Thị M.

- Năm 2008, ông Nguyễn Bá R đăng ký biến động và được chỉnh lý biến động giảm diện tích thửa đất số 1281, tờ bản đồ số 3 và tách thêm thửa mới là 2073, đến năm 2014, ông Nguyễn Bá R được cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Việc cấp Giấy chứng nhận QSDĐ cho ông Lê Hồng S và bà Nguyễn Thị G được Ủy ban nhân dân huyện M cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 28/6/2007 (03 giấy: Số phát hành AK 014356, số vào sổ H 007769, thửa 2071;

số phát hành AK 014357, số vào sổ H 00770, thửa 2072; số phát hành AK 014358, số vào sổ H 00771, thửa 2073) là đảm bảo đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.

Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Trần Thị N, ông Châu Văn H2 và ông Nguyễn Bá R là cùng thời điểm với bà Huỳnh Thị D không có trùng số thửa. Đến năm 2007, bà Huỳnh Thị D tặng cho quyền sử dụng đất cho con 1 phần thửa và được cho số thửa mới là đúng quy định pháp luật.

Sau thời điểm năm 2007, bà Trần Thị N, ông Châu Văn H2 và ông Nguyễn Bá R mới đăng ký chỉnh lý biến động do thi công kênh hậu Quốc lộ F đã tách các thửa đất gốc thành 02 thửa (1 thửa giữ lại theo số thửa củ và 1 thửa cho số thửa mới) theo số thửa đã được chỉnh lý trên bản đồ (đơn vị tư vấn đã chỉnh lý biến động) nên có sai sót trùng vào các số thửa đất đã cấp cho ông Lê Hồng S và bà Nguyễn Thị G (chỉ trùng số thửa nhưng không trùng vị trí đất).

Đối với các trường hợp cho số trùng số thửa của bà Trần Thị N thửa đất số 2071; ông Châu Văn H2 thửa đất số 2072; ông Nguyễn Bá R thửa đất số 2073 thuộc trường hợp phải đính chính số thửa do có sai sót về thông tin thửa đất được quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 106 của Luật Đất đai năm 2013.

Ngày 03/7/2020, bà Trần Thị N đã tiến hành thực hiện thủ tục đăng ký biến động đính chính số thửa 2071 thành số thửa 3863”.

Căn cứ vào nội dung trên thì Ủy ban nhân dân huyện M (nay là thị xã K) tỉnh Long An cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất các thửa đất số 2071, 2072 và 2073 cho ông S và bà G là đúng quy định của pháp luật.

- Theo Mảnh trích đo bản đồ địa chính số 4-2021 ngày 15/01/2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại thị xã K thì phần đất tranh chấp có diện tích 2m2, 12m2 và 49m2 (tổng diện tích 63m2) thì thuộc một phần các thửa số 2073, 2072 và 2071, tờ bản đồ số 3 thuộc quyền sử dụng của ông S và bà G; Giữa các thửa đất số 2071, 2072, 2073 (của ông S và bà G) với các thửa đất số 265, 266, 268 tờ bản đố số 3 (của bà P) là phần đất thủy lợi (kí hiệu là DTL). Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện theo ủy quyền của bị đơn là ông Đặng Huỳnh L3 và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị đơn cũng xác định giữa phần đất của ông S, bà G với phần đất của bà P là đường thoát nước do Nhà nước quản lý. Tại biên bản lấy lời khai ngày 29/5/2020, bà P không yêu cầu đo các thửa đất liền kề của bà, bà đồng ý lấy theo ranh địa chính, phía nguyên đơn khởi kiện thì có nghĩa vụ chứng minh phần đất mình bị thiếu. Do đó, có căn cứ xác định phần đất tranh chấp diện tích 63m2 thuộc quyền sử dụng của ông S, bà G.

Theo hiện trạng trên phần đất tranh chấp trước đây bà P có xây dựng một nhà xe kết cấu: Nền xi măng, vách tole sóng vuông, cột thép vì kèo thép gia công, mái lộp tole sóng vuông. Một phần căn nhà được xây dựng trên phần đất tranh chấp có diện tích 23m2 và xây dựng hàng rào tạm lưới B40 dài 18,4m, kết cấu: Cột thép vuông 5x5 (cm), tường rào xây gạch dày 10cm, phía trên gắn lưới B40 cao 2,5m. Theo văn bả số 38/CV-QLĐT ngày 10/2/2023 của Phòng Quản lý đô thị T, tỉnh Long An xác định căn nhà để xe của bà Hồ Bích P được xác định quy mô: Nhà trệt; Kết cấu: Nền xi măng, vách tole sóng vuông, cột thép vì kèo thép gia công, mái lộp tole song vuông. Do đây là loại nhà khung thép tiền chế vách tole, mái tole (nhà lắp ráp) nên có thể thay đổi diện tích nhà bằng biện pháp cắt nối xử lý liên kết hàn được. Vì vậy, việc tháo dỡ một phần căn nhà có diện tích 23m2 nêu trên thực hiện được trên thực tế, phần kết cấu có thể xử lý không ảnh hưởng đến phần kết cấu còn lại. Do đó, yêu cầu khởi kiện của bà G, ông S về việc buộc bà P tháo dỡ một phần căn nhà để xe diện tích 23m2 và phần hàng rào để trả lại phần đất trên là có căn cứ chấp nhận.

[3.3] Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, nên Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của bị đơn về việc đề nghị hủy các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà D, bà G và ông S là đúng quy định pháp luật.

[3.4] Ngoài ra, quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm thì nguyên đơn có xin rút một phần yêu cầu khởi kiện, bị đơn rút một phần yêu cầu nên Tòa án cấp sơ thẩm đã đình chỉ giải quyết đối với các yêu cầu mà đương sự đã rút.

[3.5] Đối với tranh chấp giữa bà D với ông T thì sau khi xét xử sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị liên quan đến nội dung này, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy bản án sơ thẩm đã xét xử là có căn cứ. Bị đơn có kháng cáo nhưng không có tài liệu, chứng cứ chứng minh. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa; Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[5] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[6] Án phí dân sự phúc thẩm:

Bà Hồ Bích P, sinh năm 1960 nên được miễn án phí theo quy định tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, I/Không yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Hồ Bích P (có ông Hồ Hoàng V là đại diện theo ủy quyền).

Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 06/2023/DS-ST ngày 20/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.

Áp dụng Điều 166, Điều 203 Luật Đất đai năm 2013; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Huỳnh Thị D, ông Lê Hồng S và bà Nguyễn Thị G về việc tranh chấp quyền sử dụng đất với bà Hồ Bích P đối với các phần đất, cụ thể: Phần đất đo đạc diện tích thực tế 12m2 thuộc một phần thửa đất số 266; Phần đất đo đạc diện tích thực tế 4m2, loại đất DGT và các phần đất đo đạc diện tích thực tế lần lượt là 18m2, 141m2 cùng loại đất DTL, tất cả thuộc tờ bản đồ số 3, đất tọa lạc tại Khu phố E, Phường B, thị xã K, tỉnh Long An.

2. Đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu của bị đơn bà Hồ Bích P về việc yêu cầu Tòa án hủy Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu số 2446/QĐ-UBND ngày 09/10/2019 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã K, tỉnh Long An và Quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 số 379/QĐ-UBND ngày 07/02/2020 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh L.

3. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng đất của bà Huỳnh Thị D với bà Hồ Bích P đối với phần đất đo đạc diện tích thực tế 279m2, loại đất NTS, thuộc một phần thửa 3484, tờ bản đồ số 3, đất tọa lạc tại Khu phố E, Phường B, thị xã K, tỉnh Long An.

Buộc bà Hồ Bích P phải tháo dỡ bờ rào hình dạng chữ L kết cấu: Tường xây gạch dày 20cm, cao 0,7m, chiều dài lần lược: 11,9m và 2,2m tại vị trí số 02 để trả lại cho bà Huỳnh Thị D phần đất đo đạc diện tích thực tế 279m2, loại đất NTS, thuộc một phần thửa 3484, tờ bản đồ số 3, đất tọa lạc tại Khu phố E, Phường B, thị xã K, tỉnh Long An.

Các bên đương sự có trách nhiệm liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để điều chỉnh biến động hoặc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

4. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng đất của ông Lê Hồng S, bà Nguyễn Thị G với bà Hồ Bích P đối với các phần đất: Phần đất đo đạc diện tích thực tế 2m2 thuộc một phần thửa 2071, loại đất LUC; Phần đất đo đạc diện tích thực tế 12m2 thuộc một phần thửa 2072, loại đất NTS và phần đất đo đạc diện tích thực tế 49m2 thuộc một phần thửa 2073, loại đất ODT, tất cả đất thuộc tờ bản đồ số 3, tọa lạc tại Khu phố E, Phường B, thị xã K, tỉnh Long An.

Buộc bà Hồ Bích P tháo dỡ hàng rào dài 18,4m, kết cấu: Cột thép vuông 5x5 (cm), tường rào xây gạch dày 10cm, phía trên gắn lưới B40 cao 2,5m và tháo dỡ một phần căn nhà để xe diện tích 23m2 kết cấu: Nền xi măng, vách tole sóng vuông, cột thép vì kèo thép gia công, mái lộp tole sóng vuông, để trả lại cho ông Lê Hồng S, bà Nguyễn Thị G các phần đất cụ thể: Phần đất đo đạc diện tích thực tế 2m2 thuộc một phần thửa 2071, loại đất LUC; Phần đất đo đạc diện tích thực tế 12m2 thuộc một phần thửa 2072, loại đất NTS và Phần đất đo đạc diện tích thực tế 49m2 thuộc một phần thửa 2073, loại đất ODT, tất cả đất thuộc tờ bản đồ số 3, tọa lạc tại Khu phố E, Phường B, thị xã K, tỉnh Long An.

Các bên đương sự có trách nhiệm liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để điều chỉnh biến động hoặc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

5. Không chấp nhận yêu cầu của bà Hồ Bích P yêu cầu Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY 875268 đối với thửa đất số 3484 (đính chính từ thửa đất số 3384), tờ bản đồ số 3, loại đất NTS, tại Phường B, thị xã K, tỉnh Long An do Ủy ban nhân dân thị xã K cấp cho bà Huỳnh Thị D và ông Lê Hồng H ngày 04/5/2015.

6. Không chấp nhận yêu cầu của bà Hồ Bích P yêu cầu Tòa án hủy các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 014356 đối với thửa đất số 2071, loại đất LUC, diện tích 113m2; số AK 014357 đối với thửa đất số 2072, loại đất NTS, diện tích 104m2 và số AK 014358 đối với thửa đất số 2073, loại đất ONT, diện tích 131m2; cùng thuộc tờ bản đồ số 3, đất tọa lạc tại Phường B, thị xã K, tỉnh Long An do Ủy ban nhân dân thị xã K cấp cho ông Lê Hồng S và bà Nguyễn Thị G ngày 28/6/2007.

7. Không chấp nhận yêu cầu tranh chấp quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Phú T đối với ông Lê Hồng H, bà Huỳnh Thị D đối với phần đất đo đạc diện tích thực tế 58m2 thuộc một phần thửa 3484, loại đất NTS, tờ bản đồ số 3, đất tọa lạc tại Khu phố E, Phường B, thị xã K, tỉnh Long An.

Ông Lê Hồng H và bà Huỳnh Thị D được tiếp tục sử dụng phần đất đo đạc diện tích thực tế 58m2 thuộc một phần thửa 3484, loại đất NTS, tờ bản đồ số 3, đất tọa lạc tại Khu phố E, Phường B, thị xã K, tỉnh Long An.

Các bên đương sự có trách nhiệm liên hệ cơ quan nhà nước có thẩm quyền để điều chỉnh biến động hoặc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

8. Không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Phú T yêu cầu bà Huỳnh Thị D, ông Lê Hồng H khôi phục lại kênh thoát nước của Nhà nước tại vị trí thửa đất số 3484, tờ bản đồ số 3, diện tích 925,7m2, đo đạc thực tế 847m2, đất toạ lạc tại Phường B, thị xã K, tỉnh Long An.

9. Tất cả các phần đất được thể hiện tại Mảnh trích đo địa chính số 4- 2021 ngày 15/01/2021 của Chi nhánh Văn phòng Đ tại thị xã K và Mảnh trích đo địa chính số 104-2022 ngày 21/10/2022 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai tại thị xã K.

10. Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

II. Án phí dân sự phúc thẩm:

Bà Hồ Bích P được miễn; Hoàn trả cho bà P 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0001725 ngày 20/3/2023 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Long An.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

127
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 835/2023/DS-PT về tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy quyết định cá biệt

Số hiệu:835/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 14/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;