Bản án 82/2021/HNGĐ-ST ngày 24/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

 BẢN ÁN 82/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/05/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

 Ngày 24 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 129/2021/TLST- HNGĐ ngày 06 tháng 4 năm 2021 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hoàng L; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 7, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng; chỗ ở hiện nay: Thôn Đ, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Đăng C; địa chỉ: Thôn 7, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện nộp tại Tòa án ngày 01 tháng 4 năm 2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hoàng L trình bày:

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Hoàng L kết hôn với anh Nguyễn Đăng C trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Dương, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng vào ngày 25 tháng 02 năm 2010. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn căng thẳng. Nguyên nhân do anh C sử dụng ma túy, chị L có khuyên bảo nhưng anh C không thay đổi mà còn xúc phạm và đánh chị L. Do mâu thuẫn chị L và anh C đã sống ly thân nhau từ năm 2020 đến nay. Mâu thuẫn giữa chị L và anh C đã được gia đình và địa phương hòa giải nhưng không có kết quả. Anh C hiện đang cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy Gia Minh. Chị L nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Đăng C.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị Hoàng L và anh Nguyễn Đăng C có 01 con chung tên Nguyễn Đăng Nghĩa, sinh ngày 15 tháng 6 năm 2011. Khi ly hôn chị L có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung do hiện nay anh C đang cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy Gia Minh. Về cấp dưỡng nuôi con chung, chị L không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con chung mà để hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Hoàng L và anh Nguyễn Đăng C tự thỏa thuận phân chia tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại Biên bản lấy lời khai ngày 22 tháng 4 năm 2021 bị đơn anh Nguyễn Đăng C trình bày:

Về hôn nhân: Anh Nguyễn Đăng C thừa nhận lời khai của chị Nguyễn Thị Hoàng L về thời gian, điều kiện, hình thức kết hôn là đúng. Về nguyên nhân mâu thuẫn anh C cho rằng vợ chồng phát sinh mâu thuẫn từ năm 2019 một phần do anh nghiện ma túy, một phần do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, chị L thiếu quan tâm chăm sóc gia đình, anh C nghi ngờ chị L có quan hệ ngoại tình nên thường xảy ra cãi mắng lẫn nhau, có lần anh đã đánh chị L. Anh C hiện đang cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy Gia Minh. Lúc đầu chị L có đến thăm nom anh nhưng từ giữa năm 2020 đến nay chị L không quan tâm gì đến anh nữa. Mâu thuẫn giữa anh và chị L đã được gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Nay chị L xin ly hôn, anh C thừa nhận tình cảm vợ chồng không còn nhưng không đồng ý ly hôn do anh muốn sau khi cai nghiện xong về sẽ trực tiếp giải quyết với chị L.

Về con chung: Anh và chị L có 01 con chung tên Nguyễn Đăng Nghĩa, sinh ngày 15 tháng 6 năm 2011. Khi ly hôn anh C có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung vì hiện nay con chung đang ở với bố mẹ đẻ anh tại xã Tân Dương. Về cấp dưỡng nuôi con chung, anh C không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Anh và chị Nguyễn Thị Hoàng L tự thỏa thuận phân chia tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Đương sự đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn xử cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Hoàng L và anh Nguyễn Đăng C. Giao con chung Nguyễn Đăng Nghĩa, sinh ngày 15 tháng 6 năm 2011 cho chị Nguyễn Thị Hoàng L trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về cấp dưỡng nuôi con chung và tài sản chung do các đương sự không yêu cầu nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết. Chị Nguyễn Thị Hoàng L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Các tài liệu, chứng cứ do đương sự cung cấp và Tòa án thu thập gồm: Giấy chứng nhận kết hôn, bản sao sổ hộ khẩu, bản sao giấy chứng minh nhân dân, bản sao giấy khai sinh của con; Bản tự khai; Biên bản lấy lời khai; Đơn tự nguyện ghi ngày 27/4/2021; Đơn đề nghị giải quyết và xét xử vắng mặt ghi ngày 22/4/2021; Biên bản xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Tân Dương và gia đình anh Nguyễn Đăng C.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại thời điểm Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, bị đơn là anh Phạm Đăng C đang cai nghiện tại Cơ cở cai nghiện ma túy Gia Minh, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng và có nơi cư trú tại thôn 7, xã Tân Dương, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Vì vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn là anh Nguyễn Đăng C vắng mặt tại phiên tòa và có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Nguyễn Đăng C.

[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Hoàng L và anh Nguyễn Đăng C kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Dương, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng vào ngày 25 tháng 02 năm 2010 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn căng thẳng. Theo tài liệu xác minh tại địa phương thể hiện nguyên nhân mâu thuẫn là do anh C sử dụng ma túy, tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm dẫn đến vợ chồng xảy ra cãi mắng lẫn nhau. Mâu thuẫn vợ chồng chị L, anh C đã được gia đình, địa phương khuyên bảo, hòa giải nhưng không có kết quả. Hiện anh C đang cai nghiện tại Cơ sở cai nghiện ma túy Gia Minh. Chị Nguyễn Thị Hoàng L xin ly hôn, anh Nguyễn Đăng C thừa nhận tình cảm vợ chồng không còn nhưng không đồng ý ly hôn. Điều này thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Hoàng L và anh Nguyễn Đăng C đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Việc anh C không đồng ý ly hôn chỉ nhằm mục đích gây khó khăn cho chị L. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xử cho chị Nguyễn Thị Hoàng L được ly hôn anh Nguyễn Đăng C.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị Hoàng L và anh Nguyễn Đăng C có 01 con chung là Nguyễn Đăng Nghĩa, sinh ngày 15 tháng 6 năm 2011. Khi ly hôn chị L, anh C đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung. Hội đồng xét xử xét thấy, việc giao con cho ai nuôi cần xem xét mọi mặt và đảm bảo quyền lợi của con chưa thành niên. Xét anh Nguyễn Đăng C hiện đang cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy Gia Minh, chị Nguyễn Thị Hoàng L hiện là lao động tự do có thu nhập, cháu Nguyễn Đăng Nghĩa có nguyện vọng ở với mẹ nên căn cứ Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao con chung cho chị Nguyễn Thị Hoàng L trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị Hoàng L đề nghị để chị và anh Nguyễn Đăng C tự thỏa thuận giao nhận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Hoàng L và anh Nguyễn Đăng C trình bày thống nhất tự thỏa thuận phân chia tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

[6] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Nguyễn Thị Hoàng L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Hoàng L và anh Nguyễn Đăng C.

2. Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Đăng Nghĩa, sinh ngày 15 tháng 6 năm 2011 cho chị Nguyễn Thị Hoàng L trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị Hoàng L và anh Nguyễn Đăng C tự thỏa thuận giao nhận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Hoàng L và anh Nguyễn Đăng C tự thỏa thuận phân chia tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Hoàng L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) chị L đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0015810 ngày 06 tháng 4 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên. Chị Nguyễn Thị Hoàng L đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Hoàng L có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Đăng C có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án do Tòa án tống đạt hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 82/2021/HNGĐ-ST ngày 24/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:82/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;