TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN MINH, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 42/2020/HNGĐ-ST NGÀY 05/08/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 05 tháng 8 năm 2020 tại Tòa án nhân dân huyện An Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 80/2020/TLST - HNGĐ ngày 09/3/2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2020/QĐXX - HN ngày 18/6/2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 53/2020/QĐST - HN ngày 17/7/2020, giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Chị Dương Thị N, sinh năm: 1990. Địa chỉ: Ấp XQ, xã TH, huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang. (Có mặt)
* Bị đơn: Anh Phạm Văn Đ, sinh năm: 1983. Địa chỉ: Ấp TPĐ, xã ĐH, huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang. (vắng mặt lần 2 không có lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện ngày 10/02/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Dương Thị N trình bày và yêu cầu như sau: Chị và anh Phạm Văn Đ chung sống với nhau từ năm 2013, có thực hiện việc đăng ký kết hôn và được UBND xã ĐH cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 18/01/2013. Sau khi đám cưới, vợ chồng về sinh sống tại ấp TPĐông, xã ĐH cho đến khi vợ chồng không còn chung sống cùng nhau.
Trong quá trình vợ chồng chung sống thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hòa hợp nhau, gia đình anh Đ đối xử với chị rất hà khắc, anh Đ luôn nghe lời mẹ và không chia sẻ quan tâm tới chị. Mặc dù chị đã cố gắng chịu đựng nhưng mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng không thể hàn gắn được. Anh chị đã thật sự ly thân với nhau đến nay khoảng hơn 01 năm.
* Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Phạm Văn Mạnh (sinh ngày 19/12/2005, giới tính nam). Hiện nay đang chung sống với anh Đ.
* Về tài sản chung và nợ chung: Không có tranh chấp nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Do tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nên chị N yêu cầu được ly hôn với anh Đ; yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Mạnh, không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con; tài sản chung và nợ chung không có tranh chấp nên chị N không yêu cầu giải quyết.
* Trong quá trình giải quyết vụ án anh Phạm Văn Đ không có lời trình bày.
* Tại phiên tòa:
- Chị N: Yêu cầu được ly hôn với anh Đ; đồng ý giao cháu Mạnh cho anh Đ tiếp tục nuôi dưỡng. Tài sản và nợ không có tranh chấp nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Anh Đ: Vắng mặt không có ý kiến.
- Kiểm sát viên phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã thực hiện đầy đủ, đúng trình tự, thủ tục theo quy định pháp luật tố tụng dân sự;
Đối với các đương sự thì từ khi thụ lý vụ án đến nay phía nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định. Phía bị đơn vắng mặt tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ là chưa thực hiện đúng nghĩa vụ của mình theo quy định theo quy định.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng khoản1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 và Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị N được ly hôn với anh Đ; tiếp tục giao cháu Mạnh cho anh Đ nuôi dưỡng; tài sản và nợ chung do không có yêu cầu nên không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (gọi tắt là HĐXX) nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn chị Dương Thị N khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Phạm Văn Đ là tranh chấp dân sự về hôn nhân và gia đình. Khi chị N khởi kiện được Tòa án thụ lý vụ án giải quyết thì anh Đ có nơi cư trú tại ấp T PĐ, xã ĐH, huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang (Có xác nhận của chính quyền địa phương) là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Minh theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Qua yêu cầu của đương sự trong vụ án được xác định mối quan hệ pháp luật là “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành tống đạt và niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh Đ đều vắng mặt không có lý do. Toà án triệu tập anh Đ tham gia phiên tòa sơ thẩm lần hai nhưng anh Đ vẫn vắng mặt không có lý do. Xét thấy, trường hợp vắng mặt của anh Đ không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên HĐXX căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt anh Đ.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị N và anh Đ chung sống với nhau từ năm 2013, có đăng ký kết hôn tại UBND xã ĐH và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 18/01/2013 theo đúng quy định của pháp luật nên quan hệ hôn nhân của anh chị là hôn nhân hợp pháp.
Xét yêu cầu của chị N về việc ly hôn với anh Đ, HĐXX xét thấy trong quá trình giải quyết vụ án, chị N cho rằng sau khi kết hôn và qua thời gian chung sống vợ chồng luôn bất đồng quan điểm với nhau, tính tình không hòa hợp. Chị luôn nhẫn nhịn nhưng tình cảm vợ chồng chị không hàn gắn được nên anh chị đã ly thân khoảng hơn 01 năm nay. Qua xác minh tại nơi cư trú, cho thấy trong quá trình chung sống giữa anh chị thường xuyên cự cãi, vợ chồng luôn bất đồng quan điểm, anh Đ không lo làm ăn là đúng như chị N trình bày. Đồng thời, sau khi Tòa án thụ lý đã tiến hành triệu tập anh Đ Nều lần để hòa giải nhằm động viên anh chị trở về chung sống, tiếp tục xây dựng hạnh phúc gia đình nhưng anh Đ luôn vắng mặt, không gửi cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến của anh đối với yêu cầu của chị N.
Mặc khác, theo như chị N trình bày anh chị đã ly thân khoảng hơn 01 năm nay nhưng anh chị vẫn không hàn gắn lại được tình cảm, không tới lui để quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau là anh chị đã vi phạm quyền và nghĩa vụ của vợ chồng làm cho hôn nhân của anh chị lâm vào tình trạng trầm trọng, Đ sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, HĐXX căn cứ vào lời trình bày của chị N và các tài liệu chứng cứ có trong vụ án để xem xét giải quyết theo quy định.
[3] Về quan hệ con chung: Chị N xác nhận, trong quá trình chung chị và anh Đ có 01 con chung là cháu Phạm Văn M, sinh ngày 19/02/2015. Hiện nay, cháu M đang chung sống cùng anh Đ nên chị N đồng ý giao cháu M cho anh Đ tiếp tục nuôi dưỡng. HĐXX xét thấy, việc giao cháu M cho anh Đ tiếp tục nuôi dưỡng của chị N là tự nguyện nên HĐXX chấp nhận.
[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị N xác nhận không có tranh chấp nên HĐXX không xem xét. Nhưng sau khi ly hôn, trường hợp có phát sinh nợ chung trong thời kỳ hôn nhân của chị N và anh Đ thì anh chị vẫn có nghĩa vụ liên đới.
Từ các cơ sở nêu trên, HĐXX căn cứ khoản1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 và Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và đại diện Viện kiểm sát; cho chị N được ly hôn với anh Đ; tiếp tục giao cháu Mạnh cho anh Đ nuôi dưỡng, chị N không cấp dưỡng nuôi con; tài sản và nợ chung không tranh chấp nên HĐXX không xem xét.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị N phải chịu án phí ly hôn số tiền là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 266 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1/ Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Dương Thị N được ly hôn với anh Phạm Văn Đ.
2/ Về con chung: Tiếp tục giao cháu Phạm Văn Mạnh (sinh ngày 19/02/2015, giới tính nam) cho anh Phạm Văn Đ trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.
Chị N không cấp dưỡng nuôi con. Khi cần thiết, anh Đ có quyền yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con theo qui định của pháp luật.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
3/ Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Dương Thị N chịu án phí ly hôn là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) được trừ vào tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp số tiền là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo lai thu 0007739 ngày 05/3/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang. Chị N đã nộp xong.
4/ Quyền kháng cáo: Chị N có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 05/8/2020).
Anh Đ vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 42/2020/HNGĐ-ST ngày 05/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 42/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Minh - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 05/08/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về