TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 81/2024/HC-PT NGÀY 25/03/2024 VỀ KHIẾU KIỆN HỦY MỘT PHẦN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LY ĐẤT ĐAI
Ngày 25 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 313/2023/TLPT-HC ngày 17 tháng 11 năm 2023 về việc: “Khiếu kiện hủy một phần quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai liên quan đến việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 15/2023/HC-ST ngày 18 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế bị kháng cáo.
Giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Lê Thái H, sinh năm 1984; Địa chỉ: số A L, phường Đ, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện: Ông Hoàng Quốc H1 - Công ty L1. Địa chỉ: B N, phường V, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Người bị kiện: Ủy ban nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Địa chỉ: B T, phường X, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Phan Thị Diễm H2, sinh năm 1983. Địa chỉ: số A L, phường Đ, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế.
2. Ông Trần Thanh S, sinh năm 1974. Địa chỉ: số A L, phường Đ, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế.
3. Bà Trần Thị Thu H3, sinh năm 1972. Địa chỉ: Tổ F, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện ông Lê Thái H, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Thanh S và bà Trần Thị Thu H3: Bà Đặng Thị Minh Y, sinh năm 1994; Địa chỉ: B N, phường V, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Người kháng cáo: người khởi kiện ông Lê Thái H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phan Thị Diễm H2.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 29/7/2022, các đơn khởi kiện bổ sung ngày 10/11/2022 và ngày 16/3/2023, các tài liệu, chứng cứ kèm theo và tại phiên tòa, người khởi kiện là ông Lê Thái H trình bày:
Nguồn gốc nhà đất có diện tích 158,8m2, tại thửa đất số 21, tờ bản đồ số 27 (thửa đất số 07, tờ bản đồ thu hồi) tọa lạc tại số A L, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế do mẹ ông H là bà Nguyễn Thị V tạo lập hợp pháp theo các giấy tờ về quyền sử dụng đất, nhà ở, hồ sơ địa chính và các bản đồ, bản vẽ thửa đất. Quá trình sử dụng đất ổn định, liên tục và không có tranh chấp. Hàng năm gia đình bà Nguyễn Thị V thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế nhà đất đối với Nhà nước.
Trên phần diện tích đất này, có nhiều thế hệ, nhiều cặp vợ chồng cùng chung sống là: Hộ chính của gia đình ông bà Trần Xuân H4 - Nguyễn Thị V; hộ phụ của gia đình ông bà Trần Thanh S - Nguyễn Phước Thị An P; và gia đình ông bà Lê Thái H - Phan Thị Diễm H2. Vợ chồng ông Trần Xuân H4 - bà Nguyễn Thị V có 02 người con chung là: Trần Thị Thu H3 và Trần Thanh S. Ông Trần Xuân H4 là người có công với cách mạng, đã hy sinh năm 1978. Bà Nguyễn Thị V đã mất vào ngày 06/07/2021 và không để lại di chúc.
Ông Trần Thanh S là con ruột của vợ chồng bà Nguyễn Thị V và ông Trần Xuân H4. Ông S kết hôn với bà Nguyễn Phước Thị An P vào năm 2001, có 02 người con chung là Trần Đình Thanh H5 và Trần Thị Diệu L cùng chung sống trên thửa đất này.
Ông Lê Thái H là con ruột của bà Nguyễn Thị V và ông Lê Văn T. Ông Hòa kết h với bà Phan Thị Diễm H2 vào năm 2009, có 02 người con là Lê Uyên Nhật P1 và Lê Uyên Nhật M cùng chung sống trên thửa đất này.
2 Về Quyết định hành chính số 3846/QĐ-UBND ngày 06/7/2020 của UBND thành phố H: Ngày 06/7/2020 UBND thành phố H ra Quyết định số 3846/QD-UBND về phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư cho hộ bà Nguyễn Thị V khi Nhà nước thu hồi đất xây dựng dự án Di dời giải tỏa các hộ dân tại số A L, phường T, thành phố H. Trong quá trình giải quyết phương án bồi thường thì gia đình ông Lê Thái H không hề nhận được Quyết định này. Gia đình ông Lê Thái H chỉ biết được Quyết định nói trên kể từ sau ngày 24/11/2021 là ngày Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố H cung cấp các tài liệu liên quan, trong đó có Quyết định 3846/QĐ-UBND.
Quyết định hành chính số 3846/QĐ-UBND không hề có thông tin, không bố trí tái định cư cho ông Lê Thái H - bà Phan Thị Diễm H2 là không thỏa đáng và không đúng quy định của pháp luật.
Trong khi hộ gia đình vợ chồng ông Lê Thái H - bà Phan Thị Diễm H2 cùng các con là Lê Uyên Nhật P1 và Lê Uyên Nhật M đều cùng chung sống trên một thửa đất ở bị thu hồi. Tất cả 04 thành viên gia đình ông đều có nhu cầu về chỗ ở và không có chỗ ở nào khác trong cùng địa bàn phường T, thành phố H. Căn cứ khoản 2 Điều 9 Quyết định 37/2018/QĐ-UBND ngày 19/6/2018 của UBND tỉnh T thì hộ gia đình ông Lê Thái H - bà Phan Thị Diễm H2 được cấp 01 lô đất tái định cư.
Do đó, ông H khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy một phần Quyết định số 3846/QĐ-UBND ngày 06/7/2020 của UBND thành phố H về phê duyệt phương án bồi thường và hỗ trợ tái định cư cho hộ bà Nguyễn Thị V khi Nhà nước thu hồi đất cho dự án di dời giải tỏa các hộ dân tại số A L, phường T, thành phố H; buộc Ủy ban nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế ban hành lại quyết định phê duyệt phương án bồi thường và hỗ trợ tái định cư đối với thửa đất trên theo hướng: cấp cho hộ phụ gia đình ông Lê Thái H, bà Phan Thị Diễm H2 01 lô đất tái định cư.
Người bị kiện là Ủy ban nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế trình bày:
Nguồn gốc của thửa đất số 07, tờ bản đồ thu hồi: Theo xác nhận của UBND phường T (nay phường Đ): Đất do Bưu điện tỉnh T bản hóa giá căn hộ tập thể cho bà Nguyễn Thị V tại Quyết định số 23/QĐ ngày 02/11/1990 kèm theo Sơ đồ hóa giá phòng ở tập thể. Tại hồ sơ không có giấy tờ thể hiện việc đã nộp tiền sử dụng đất. Phần đất thu hồi có 22,5m2 thuộc nhà đất hóa giá sẻ dụng ổn định trước ngày 15/10/1993, phần thu hồi còn lại do chiếm dụng đất công sau ngày 15/10/1993, Kết quả bồi thường: Bồi thường 59,5% đất ở, diện tích 22,5m2; không bồi thường 136,3m2.
Trên cơ sở hồ sơ do Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố H lập kèm theo văn bản xác nhận tình trạng sinh sống các hộ phụ của UBND phường T cũ (nay là phường Đ) thì trường hợp hộ bà Nguyễn Thị V thể hiện hộ ông Trần Thanh S 3 không sinh sống tại thửa đất thu hồi; hộ ông Lê Thái H không có danh sách tại văn bản xác nhận của UBND phường T. Ngày 06/7/2020, UBND thành phố H ban hành Quyết định số 3846/QD- UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất thực hiện dự án Di dời giải tỏa các hộ dân tại A L, phường T, thành phố H. Trong đó, hộ ông Lê Thái H - Phan Thị Diễm H2 không có trong danh mục phê duyệt tại Quyết định số 3846/QĐ-UBND ngày 06/07/2020 của UBND thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Tại buổi làm việc ngày 11/01/2022, ông Lê Thái H trình bày: Gia đình ông (hộ phụ của bà Nguyễn Thị V) sinh sống tại số A L, phường T (nay thuộc phường Đ), thành phố H từ năm 1990 cho đến nay; Từ khi biết được UBND thành phố phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với dự án, thì vợ chồng ông không có danh sách phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, tuy nhiên đến nay ông mới làm đơn khiếu nại vì lý do bận rộn công việc. Do đó ông đề nghị thành phố chỉ đạo các đơn vị liên quan kiểm tra, rà soát để xem xét bố trí tái định cư cho hộ phụ gia đình ông; ông chỉ kiến nghị nội dung trên, không có khiếu nại, kiến nghị khác và xin rút lại đơn khiếu nại đề ngày 01/12/2021.
Ngày 12/01/2022, Phòng T1 làm việc với Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố và UBND phường Đ, trong đó có nội dung: Trên cơ sở xác nhận của UBND phường Đ về chỗ ở, tình trạng sinh sống của ông bà Lê Thái H, Phan Thị Diễm H2, Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố kiểm tra, rà soát và đề xuất theo quy định đối với trường hợp hộ ông Lê Thái H. Ngày 14/02/2022, UBND phường Đ có Công văn số 22/UBND-ĐC kèm theo Biên bản làm việc ngày 26/01/2022 về việc xác minh trường hợp ông bà Lê Thái H - Phan Thị Diễm H2. Để việc rà soát, lập phương án bố trí tái định cư đảm bảo theo quy định của pháp luật, Phòng T1 đã có Công văn số 519/TNMT-GPMB ngày 11/3/2022 đề xuất đối với trường hợp kiến nghị xem xét bố trí đất tái định cư của ông Lê Thái H thuộc dự án di dời giải tỏa các hộ dân tại 01 L, thành phố H theo quy định. Hiện nay, Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố đang thực hiện kiểm tra, rà soát đối với trường hợp hộ ông Lê Thái H. Từ các nội dung nêu trên, việc UBND thành phố H ban hành Quyết định số 3846/QĐ-UBND ngày 06/07/2020 về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư dự án di dời giải tỏa các hộ dân tại 01 L, thành phố H là đảm bảo theo quy định của pháp luật, theo đó hộ ông Lê Thái H không có danh sách xác nhận của UBND phường nên không có cơ sở để phê duyệt đối với ông bà Lê Thái H - Phan Thị Diễm H2. Y kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là bà Phan Thị Diễm H2, ông Trần Thanh S, bà Trần Thị Thu H3: Các ông, bà đồng ý với yêu cầu của người khởi kiện, yêu cầu Tòa án hủy một phần Quyết định số 3846/QĐ-UBND ngày 06/7/2020 của UBND thành phố H về phê duyệt phương án bồi thường và hỗ trợ tái định cư cho hộ bà Nguyễn Thị V khi Nhà nước thu hồi đất cho dự án di dời giải tỏa các hộ dân tại số A L, phường T, thành phố H; kiến nghị UBND thành phố H ban hành lại Quyết định 4 phê duyệt phương án bồi thường và hỗ trợ tái định cư theo hướng: cấp cho hộ phụ gia đình ông Lê Thái H - bà Phan Thị Diễm H2 01 suất tái định cư.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành thu thập tài liệu chứng cứ liên quan đến việc giải quyết vụ án. Theo Công văn số 169/CV-UBND ngày 14/6/2023 của UBND phường Đ, thành phố H cung cấp có nội dung:
Trên cơ sở báo cáo xác minh của Công an phường, tháng 11/2019 phường T (nay là phường Đ) có Công văn xác nhận thông tin liên quan đến hộ phụ khi thực hiện Dự án giải phóng mặt bằng tại số A L, thành phố H. Trong đó, ông Lê Thái H và bà Phan Thị Diễm H2 không có trong danh sách do chung hộ khẩu với hộ bà Nguyễn Thị V. Ngày 26/01/2022, UBND phường đã tổ chức họp với cán bộ tổ dân phố, Công an khu vực để xác minh tình trạng sinh sống của ông Lê Thái H - bà Phan Thị Diễm H2. Tại buổi làm việc, tất cả các thành viên cuộc họp đều xác nhận hộ ông H bà H2 gồm 04 khẩu có vẫn ở thực tế tại địa chỉ trên trước và sau thời điểm thu hồi đất. Do gia đình ông H có hộ khẩu chung với hộ chính là bà Nguyễn Thị V và chưa được tách riêng ra nên không có trong danh sách phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ, tái định cư. Hiện nay, vợ chồng ông H, bà H2 không có nhà đất nào khác trên địa bàn phường.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 15/2023/HC-ST ngày 18 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã quyết định:
Căn cứ khoản 1 Điều 30; khoản 4 Điều 32; Điều 116; điểm a khoản 2 Điều 193; Điều 204; Điều 206; Điều 348 Luật Tố tụng hành chính 2015; Điều 6 Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ; Quyết định số 37/2018/QD- UBND ngày 19/06/2018 của UBND tỉnh T ban hành quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Bác yêu cầu khởi kiện của ông Lê Thái H về yêu cầu tuyên hủy một phần Quyết định số 3846/QĐ-UBND ngày 06/7/2020 về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho các hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất thực hiện dự án di dời giải tỏa các hộ dân tại A L, phường T, thành phố H liên quan đến trường hợp ông bà Lê Thái H - Phan Thị Diễm H2 không có trong danh sách được bố trí tái định cư.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo và nghĩa vụ thi hành án theo quy định của pháp luật.
Kháng cáo Ngày 29/9/2023, ông Lê Thái H và bà Phan Thị Diễm H2 kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông, bà.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người kháng cáo ông Lê Thái H giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện trình bày:
Vợ chồng ông H, bà H2 cùng chung sống với bà V tại 01 L, đủ điều kiện để tách thành hộ gia đình riêng theo qui định của pháp luật về cư trú, có nhu cầu về chổ ở và không có chổ ở nào khác. Vì vậy, theo qui định tại khoản 2 Điều 79 Luật Đất đai 2013, khoản 2 Điều 6 Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ; khoản 2 Điều 9 Quyết định số 37/2018/QD-UBND ngày 19/06/2018 của UBND tỉnh T ban hành quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất thì hộ ông H, bà H2 đủ điều kiện để được giao đất tái định cư.
Y kiến của đại diện Viện ki m sát nh n d n cấp cao tại à N ng:
Bản án sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của ông Hoà là không đúng; đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo của ông H, bà H2, sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H, tuyên huỷ một phần Quyết định số 3846/QĐ-UBND ngày 06/7/2020 của Ủy ban nhân dân thành phố H về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; buộc Ủy ban nhân dân thành phố H ban hành lại Quyết định phê duyệt phương án bồi thường và hỗ trợ tái định cư theo hướng giao cho hộ phụ gia đình ông H, bà H2 01 lô đất tái định cư có thu tiền sử dụng đất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Thửa đất số 07, tờ bản đồ thu hồi (trước đây là thửa đất số 21, tờ bản đồ số 27) tại số A L, phường T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế có tổng diện tích 158,8m2. Nguồn gốc nhà đất do Bưu điện tỉnh T bán hóa giá căn hộ tập thể cho bà Nguyễn Thị V1 với diện tích đất 22,5m2; phần diện tích đất còn lại là 136,3m2 do chiếm dụng đất công sau ngày 15/10/1993. Do đó, khi thu hồi thửa đất trên, Nhà nước đã bồi thường 59,5% đất ở, diện tích 22,5m2; không bồi thường đối với diện tích đất 136,3m2. Bà Nguyễn Thị V được bồi thường 01 lô đất tái định cư.
[2] Ông Lê Thái H là con của bà Nguyễn Thị V. Theo kết quả xác minh của Ủy ban nhân dân phường Đ thì vợ chồng ông Lê Thái H, bà Phan Thị Diễm H2 cùng 02 người con sinh sống cùng với bà Nguyễn Thị V tại thửa đất trên từ trước thời điểm Nhà nước thu hồi đất cho đến nay, vợ chồng ông Lê Thái H không có nhà đất nào khác trên địa bàn phường. Gia đình ông Lê Thái H chưa tách hộ khẩu riêng, cả 04 nhân khẩu của gia đình ông Lê Thái H đều nằm trong hộ gia đình bà Nguyễn Thị V do bà V là chủ hộ.
[3] Tại khoản 2 Điều 9 Quyết định số 37/2018/QĐ-UBND ngày 19/06/2018 của UBND tỉnh T ban hành quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế quy định:
“Trường hợp trong hộ gia đình quy định tại khoản 1 iều này mà có nhiều thế hệ, nhiều cặp vợ chồng cùng chung sống trên một thửa đất ở bị thu hồi nếu đủ điều kiện đ tách thành từng hộ gia đình riêng theo quy định của pháp luật về cư trú hoặc có nhiều hộ gia đình đang sử dụng đất chung có đồng quyền sử dụng một thửa đất ở bị thu hồi nếu có nhu cầu về chổ ở và không có chỗ ở nào khác 6 trong cùng địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất bị thu hồi thì Ủy ban nh n d n cấp huyện căn cứ vào quỹ đất ở, nhà ở tái định cư hoặc giao thêm đất ở có thu tiền sử dụng đất cho từng hộ gia đình” [4] UBND tỉnh T không qui định bắt buộc phải tách hộ khẩu riêng mới được giao đất tái định cư mà qui định: “nếu đủ điều kiện đ tách thành từng hộ gia đình riêng theo quy định của pháp luật về cư trú”. Đối với trường hợp gia đình ông Lê Thái H, bà Phan Thị Diễm H2 kết hôn từ năm 2009, có 02 người con và chung sống cùng bà Nguyễn Thị V từ sau khi kết hôn cho đến thời điểm thu hồi đất, đủ điều kiện để tách thành hộ gia đình riêng theo quy định của pháp luật về cư trú nhưng chưa thực hiện. Qui định của UBND tỉnh T yêu cầu phải xem xét điều kiện, hoàn cảnh thực tế của nhiều cặp vợ chồng cùng chung sống trên một thửa đất ở bị thu hồi khi xem xét bố trí đất tái định cư.
[5] UBND thành phố H ban hành Quyết định số 3846/QĐ-UBND ngày 06/07/2020 về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư dự án di dời giải tỏa các hộ dân tại 01 L, thành phố H, do hộ ông Lê Thái H không có trong danh sách xác nhận của UBND phường nên không được phê duyệt giao đất tái định cư.
[6] Bản án sơ thẩm nhận định rằng hộ ông Lê Thái H không có nhu cầu tách sổ hộ khẩu và chưa được tách hộ khẩu riêng để bác yêu cầu khởi kiện của ông H là không phù hợp với qui định tại khoản 2 Điều 9 Quyết định số 37/2018/QĐ-UBND ngày 19/06/2018 của UBND tỉnh T. [7] Ngày 26/01/2022, UBND phường Đ đã tổ chức họp với cán bộ Tổ dân phố, Công an khu vực để xác minh tình trạng sinh sống của ông Lê Thái H, bà Phan Thị Diễm H2. Tại buổi làm việc, tất cả các thành viên cuộc họp đều xác nhận hộ ông H, bà H2 gồm 04 khẩu vẫn ở thực tế tại địa chỉ trên trước và sau thời điểm thu hồi đất. Do gia đình ông H có hộ khẩu chung với hộ chính là bà Nguyễn Thị V và chưa được tách riêng ra nên không có tên trong danh sách phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ, tái định cư; hiện vợ chồng ông H, bà H2 có nhu cầu về chổ ở và không có nhà đất nào khác trên địa bàn phường. Cuộc họp ngày 26/01/2022 do UBND phường Đ tổ chức đã nhất trí đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét bố trí đất tái định cư cho hộ ông Lê Thái H vì đã sinh sống thực tế tại hộ bà V từ trước và sau ngày dự án giải toả di dời khu tập thể 01 L, Đ, Huế. [8] Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố T1 đã có Công văn số 519/TNMT-GPMB ngày 11/3/2022 đề xuất đối với trường hợp kiến nghị xem xét bố trí đất tái định cư của ông Lê Thái H thuộc dự án di dời giải tỏa các hộ dân tại 01 L, thành phố H theo quy định. Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố đang thực hiện kiểm tra, rà soát đối với trường hợp hộ ông Lê Thái H.
[9] Thực tế, theo Công văn số 313/TB-TTPTQĐ ngày 31/8/2021 của Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố H và Phụ lục đính kèm, có nhiều trường hợp hoàn cảnh tương tự như hộ gia đình ông Lê Thái H vẫn được giao một lô đất tái định cư theo qui định tại khoản 2 Điều 9 Quyết định số 37/2018/QĐ-UBND ngày 19/06/2018 của UBND tỉnh T. 7 [10] Vợ chồng ông Lê Thái H có nhu cầu về chổ ở và không có nhà đất nào khác trên địa bàn phường nên việc bố trí giao đất tái định cư có thu tiền sử dụng đất cho hộ gia đình ông Lê Thái H là đúng qui định tại khoản 2 Điều 9 Quyết định số 37/2018/QĐ-UBND ngày 19/06/2018 của UBND tỉnh T về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, thể hiện chính sách an sinh xã hội của Nhà nước.
[11] Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo của ông Lê Thái H, bà Phan Thị Diễm H2; sửa bản án sơ thẩm.
[12] Do kháng cáo được chấp nhận nên ông Lê Thái H, bà Phan Thị Diễm H2 không phải chịu án phí phúc thẩm.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính;
Chấp nhận kháng cáo của ông Lê Thái H, bà Phan Thị Diễm H2; Sửa Bản án hành chính sơ thẩm số 15/2023/HC-ST ngày 18 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.
Áp dụng Điều 6 Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ; khoản 2 Điều 9 Quyết định số 37/2018/QD-UBND ngày 19/06/2018 của UBND tỉnh T ban hành quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Thái H: Tuyên hủy một phần Quyết định số 3846/QĐ-UBND ngày 06/7/2020 của Ủy ban nhân dân thành phố H về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho các hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất thực hiện dự án di dời giải tỏa các hộ dân tại A L, phường T, thành phố H liên quan đến trường hợp ông Lê Thái H, bà Phan Thị Diễm H2 không có trong danh sách được bố trí đất tái định cư.
Buộc Ủy ban nhân dân thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế ban hành lại Quyết định phê duyệt phương án bồi thường và hỗ trợ tái định cư theo hướng giao cho hộ phụ gia đình ông Lê Thái H, bà Phan Thị Diễm H2 01 lô đất tái định cư có thu tiền sử dụng đất.
2. Án phí hành chính sơ thẩm:
Ông bà Lê Thái H không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm.
Hoàn trả ông Lê Thái H số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp tại biên lai số 0000272 ngày 02 tháng 3 năm 2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thừa Thiên Huế.
Ủy ban nhân dân thành phố H phải chịu 300.000 đồng án phí hành chính sơ thẩm.
3. Án phí hành chính phúc thẩm:
8 Ông Lê Thái H, bà Phan Thị Diễm H2 không phải chịu án phí hành chính phúc thẩm.
Hoàn trả ông Lê Thái H số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp tại biên lai số 0000024 ngày 19/10/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thừa Thiên Huế.
Hoàn trả bà Phan Thị Diễm H2 số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp tại biên lai số 0000025 ngày 19/10/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thừa Thiên Huế.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 81/2024/HC-PT về khiếu kiện hủy một phần quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai
Số hiệu: | 81/2024/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 25/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về